Số lượt truy cập/ Number of visits
Tổng số lượt xem trang
Thứ Tư, 5 tháng 6, 2024
Thế giới đang thay đổi
Chủ Nhật, 12 tháng 5, 2024
NGƯỜI THÀNH CÔNG KHÁC NGƯỜI THƯỜNG Ở 21 THÓI QUEN SAU
Thứ Bảy, 13 tháng 4, 2024
SOME SUCCESSFUL PEOPLE AND THEIR READING STORIES.
Thứ Sáu, 12 tháng 4, 2024
ĐIỀU ĐÁNG SỢ NHẤT?
Thứ Bảy, 30 tháng 12, 2023
Mẩu giấy của Einstein
Thứ Bảy, 11 tháng 11, 2023
Học giả Nguyễn Duy Cần là ai?
Chủ Nhật, 12 tháng 3, 2023
KỶ NIỆM NGÀY MẤT CỦA ÔNG KHAI TRÍ 11/3/2005.
Thứ Hai, 21 tháng 11, 2022
6 đặc điểm của người làm nên sự nghiệp lớn
Thứ Hai, 4 tháng 4, 2022
Vua cà phê Đặng Lê Nguyên Vũ: Khát vọng vĩ đại và công thức làm nên dân tộc vĩ đại
Trong một
phần tư thế kỷ, với tầm nhìn vĩ đại cho dân tộc và khát vọng lớn cho ngành cà
phê, Nhà
sáng lập – Chủ tịch Tập đoàn Trung
Nguyên Legend Đặng Lê
Nguyên Vũ đã từng bước đưa thương hiệu Việt rạng danh toàn cầu.
KHÁT VỌNG LỚN
LAO VỀ VỊ THẾ XỨNG ĐÁNG CHO THƯƠNG HIỆU CÀ PHÊ VIỆT NAM
Năm 1996 là
dấu mốc đặc biệt của Việt Nam – năm bản lề thực hiện mục tiêu kế hoạch phát triển
kinh tế xã hội, chuẩn bị các tiền đề cho bước phát triển cao hơn của quốc gia
khi tiến vào thế kỷ 21. Trong giai đoạn đất nước đang chuyển mình sang thời kì
phát triển mới một cách toàn diện và đồng bộ này, thương hiệu Trung Nguyên đã
ra đời với sứ mạng tự nhận lãnh là người dẫn đạo để lấy lại vị thế xứng đáng
cho ngành cà phê Việt Nam trên toàn cầu.
Việt Nam là
quê hương của những hạt cà phê Robusta ngon nhất thế giới, nhưng đến trước những
năm 1990 nước ta mới sản xuất khoảng 1% sản lượng cà phê toàn cầu và chủ yếu xuất
thô. Vốn liếng chỉ có chiếc xe đạp cọc cạch, nhưng Nhà sáng lập – Chủ tịch Tập
đoàn Trung Nguyên Legend Đặng Lê
Nguyên Vũ lúc bấy giờ đã ngày đêm trăn trở “Làm thế nào để trở
thành một quốc gia vĩ đại, có tầm ảnh hưởng?”. Nếu Nhật Bản có Toyota, Sony,
Hitachi… Hàn
Quốc có Samsung, LG, Hyundai… Mỹ có IBM, Intel, Ford… Đức có Mercedes,
BMW, Audi… Thì Việt Nam ta phải làm gì để xác lập thương hiệu Việt toàn cầu?
Với nỗi niềm
ấy, dù “trong điều kiện phi chuẩn” không có tiềm lực kinh tế, chỉ có ý chí và một khát vọng lớn,
Trung Nguyên dưới sự dẫn dắt của Nhà sáng lập Đặng Lê Nguyên Vũ đã được ra đời.
Ban đầu chỉ là cơ sở rang xay diện tích vài m² với logo là hình ảnh mũi tên hướng
thẳng lên trời, chứa đựng tất cả khát vọng của người sáng lập.
Phát huy
giá trị cà phê Việt Nam, Trung Nguyên sáng tạo nên những sản phẩm cà phê tuyệt
ngon, khác biệt và đa dạng. Lần đầu tiên, Trung Nguyên đem đến cho khách hàng
cách thức tự mình trở thành người sành cà phê, tự tạo hình ảnh cá nhân qua sự lựa
chọn khác nhau trong từng hương vị cà phê. Từ đó, Trung Nguyên định hình phong
cách thưởng thức cà phê thứ thiệt, dẫn dắt gu cà phê của người Việt Nam. Xuất
phát tại Buôn Ma Thuột, sản phẩm và hàng quán Trung Nguyên lan tỏa khắp các tỉnh
thành, và ra với thế giới, nhanh chóng trở thành thương hiệu quốc gia, thương
hiệu dẫn đầu ngành cà phê Việt Nam.
Đặc biệt,
Trung Nguyên là một trong những thương hiệu đầu tiên nâng cà phê trở thành cà
phê ngoại giao, cà phê văn hóa. Dấu ấn của Trung Nguyên luôn rõ nét trong các sự
kiện kinh tế, văn hóa quan trọng của quốc gia và quốc tế. Cà phê Trung Nguyên
được chọn phục vụ các sự kiện ngoại giao của Việt Nam, là điều đặc biệt phải trải
nghiệm mỗi khi du khách quốc tế đến Việt Nam. Cà phê Weasel, Legend của Trung
Nguyên được chọn là món quà đại diện văn hóa và tinh thần của cà phê Việt Nam tặng
nguyên thủ các quốc gia.
25 năm qua,
hệ sản phẩm cà phê rang xay Trung Nguyên, cà phê hòa tan G7, Trung Nguyên Legend đã xuất khẩu đến hơn 80 quốc gia
và vùng lãnh thổ. Trung Nguyên mang theo niềm tự hào của thương hiệu Việt định
danh tại các thị trường hàng đầu như: Mỹ, Trung Quốc, Hàn Quốc, Nhật
Bản, Canada, Nga, các quốc gia châu Âu…
Trong bài
viết đăng trên Tạp chí Financial Times tháng 4 năm 2011, nhà sử học,
nhà lý luận kinh doanh Morgen Witzel nhận định rằng “Bằng các
giá trị văn hóa dân tộc, đồng thời sáng tạo một thương hiệu đầy khát vọng,
Trung Nguyên đã làm thay đổi thị trường cà phê ở Việt Nam và đưa ngành cà phê
Việt Nam vượt khỏi mặc cảm là cà phê chất lượng thấp”.
Tháng 7 năm
2012, Tạp chí Forbes tôn vinh Đặng Lê Nguyên Vũ là “Vua cà phê”. Người
đánh thức cà phê Việt, làm cho tầm vóc cà phê lớn lên, có sức sống, có hồn. Người
làm rõ nét bản sắc cà phê Việt và tầm ảnh hưởng của cà phê trong tâm thức, đời
sống của người dân Việt cũng như thế giới.
Phóng viên
Catherine Karnow của National Geographic khi gặp trực tiếp Chủ tịch Tập
đoàn Trung Nguyên Legend (năm 2012) cũng bày tỏ lòng khâm phục “Tôi không
chỉ thấy một cá nhân có ý chí quyết tâm vượt mọi giới hạn, tôi còn thấy tinh thần
Việt Nam và sức mạnh bất khuất giúp họ theo đuổi mục tiêu đến cùng”.
CÔNG THỨC CẤU THÀNH CÁC CẤP ĐỘ SỨC MẠNH VÀ TIẾN HÓA CỦA NỀN VĂN MINH – ĐẾ
CHẾ – QUỐC GIA
Khi đã
nghiên cứu và quán xét được bản chất quy luật hình thành, vận động và suy tàn của
mọi đế chế hùng mạnh nhất của nhân loại xuyên suốt Đông-Tây-Kim-Cổ; có thể đúc
kết và khẳng định một cách rõ ràng rằng: “Bất cứ một dân tộc, một quốc gia
nào cũng đều có thể biến mọi nghịch cảnh thành cơ hội, biến điểm yếu thành sức
mạnh, biến phụ thuộc thành hùng mạnh và ảnh hưởng nếu có thể hội tụ được hai điểm
then chốt, đó là Lòng Người và Ý Trời; và ngược lại, không có được Lòng Người,
không hợp được với Ý Trời, thì bất cứ thế lực nào dù mạnh đến đâu cũng sẽ sớm
suy vong, lụi tàn.”
Lòng Người được
hội tụ từ những động lực và cảm xúc từ thấp lên cao: khởi nguồn từ sự sinh tồn-sợ
hãi, lên đến các mức của sân hận, rồi tham muốn, rồi của sự khẳng định – ái kỷ
– mạn ngã, đến mức cao cấp của trắc ẩn – yêu thương – trách nhiệm. Các đại định
luật Hấp Dẫn – Cảm Ứng và Nhân Quả – Phản Phục vận hành rất
rõ ràng và mạnh mẽ ở đây.
Các cấp độ
cảm xúc càng thấp thì càng dễ để tạo ra sự quy tụ nhưng sự quy tụ từ cái nhân
nào thì sẽ gặt lại quả đó, sẽ không thể bền vững về mặt lâu dài và phải nhận lại
cái nghiệp quả xấu; Lòng Người càng được hội tụ bởi các cảm xúc và động lực
càng cao cấp, thì sức mạnh sẽ lại càng tạo ra tầm ảnh hưởng lớn mạnh và bền vững
qua các không gian-thời gian.
Ý Trời chính
là dòng chảy của những Nguyên lý nguồn và Định luật lõi của Tạo Hoá, là dòng chảy
chủ lưu của con đường tiến hóa của Tự Nhiên (Đạo) và văn minh của nhân loại nhằm
giúp con người thoát khỏi Tam Độc là Đói nghèo, Bệnh tật, Đau khổ; có được cuộc
sống Tam Phúc của Khỏe mạnh, Giàu có, Hạnh phúc; đặt nền tảng cho cuộc sống Chân
Phúc, loại bỏ Tứ đại họa của Thiên Tai, Nạn Đói, Chiến Tranh, Bệnh Dịch mà đạt
tới sự Đồng Nhất – Thống Nhất – Hợp Nhất và Đại Đồng của Nhân Loại để đảm bảo
cho một môi trường sống Hòa Bình-Thái Bình-Hạnh Phúc-Trường Tồn-Miên Viễn trên
toàn bộ Trái Đất.
Khi có đủ
Lòng Người và Ý Trời hợp nhất thì nhân loại sẽ không còn lúng túng và mù mờ về Công
thức cấu thành các Cấp độ Sức mạnh và Tiến hóa của một Quốc gia. Đó là
công thức gồm 5 thành tố có mối quan hệ biện chứng qua lại chặt chẽ, tương tức
và tuần hoàn ma trận với nhau: Độ lớn của Khát vọng quốc gia, Động lực quốc gia
dùng để nuôi dưỡng Khát vọng quốc gia, Trí huệ và sự minh triết của quốc gia, Hệ
sách lược quyền lực quốc gia, và Sự đoàn kết – cố kết vững bền của quốc gia đó.
Bản thân
trong mỗi cấu phần lại có 5 cấp độ tiến hóa từ thấp lên cao, nhưng cũng có thể
tồn tại theo dạng thức kết hợp, chồng lấn và đan xen. Do vậy, tổ hợp lại các yếu
tố để tạo nên một bảng mã gen gốc của một quốc gia vừa là rất đa dạng, vừa là rất
rõ ràng rằng bất cứ quốc gia nào cũng có thể trở nên hùng mạnh, có sức mạnh và ảnh
hưởng bền vững khi đạt tới và giữ vững một cách hài hòa ở các cấp độ cao nhất của
từng cấu phần cấu thành Công thức nêu trên; và ngược lại.
1. ĐỘ LỚN CỦA
CHÍ HƯỚNG SÁCH LƯỢC QUỐC GIA
Độ lớn của
Chí Hướng Sách Lược Quốc Gia hay chính là Độ lớn của Khát vọng quốc gia, gồm 5
cấp độ từ thấp lên cao là: Thích nghi – Sinh tồn – Độc lập, Hội nhập – Phát triển,
Trỗi dậy – Khẳng định bản sắc, Ảnh hưởng – xưng bá – xưng vương, Trung tâm – hợp
nhất. Độ lớn của khát vọng quốc gia chính là cái trần quy ước sức mạnh của
một quốc gia, không thể có một quốc gia hùng mạnh mà không xuất phát từ một cấp
độ khát vọng lớn được.
Hiện tại
trên thế giới có 3 quốc gia – dân tộc đang ở cấp độ ảnh hưởng – xưng bá và
cố ngụy trang mình như thể thuộc cấp độ trung tâm tuyến tính mà chưa hề thức ngộ
được nguyên lý trung tâm tuần hoàn, đó là Mỹ, Trung Quốc, và Israel (ít người
biết rằng Israel là một siêu cường ẩn mặt, là tổ quốc của chỉ hơn 15 triệu dân
Do Thái rải khắp toàn cầu với đức tin tuyệt đối của một dân tộc được chọn từ thời
kỳ cổ đại, dân tộc họ tạo ra hầu hết các lý thuyết và các luật chơi phổ quát hiện
nay trên thế giới, đã và đang chiếm giữ vị trí ảnh hưởng hàng đầu về các lĩnh vực
khoa học – công nghệ, tài chính, truyền thông, giáo dục,.. tập trung nhiều tại
các nước Âu-Mỹ kể cả Nga, cũng như việc tạo ra hiệu ứng nhà nước trong nhà nước
tại nhiều siêu cường và cường quốc trên thế giới hiện nay).
Sự giả tạo
nước đôi và hai mặt trong chiến lược của các siêu cường này đã, đang và sẽ gây
xung đột và tàn phá thế giới. Cùng với đó là các quốc gia muốn ảnh hưởng và
xưng bá như Nga, Nhật, Đức, Iran,… Việt Nam đang bối rối trong tâm thức giữa
chuyển từ độc lập lên trỗi dậy kinh tế, điều mới mẻ trong hơn 4000 năm lịch sử
văn hóa âm tính thụ động của dân tộc.
Và cho tới
nay, chưa có một quốc gia nào có được Khát Vọng trở thành quốc gia Trung Tâm hợp
nhất nhân loại theo nguyên lý tuần hoàn đúng theo Định luật của Tạo Hoá. Đây là
cơ hội chiến lược vĩ đại cho Việt Nam.
2. ĐỘNG LỰC
VÀ CẢM XÚC CỦA QUỐC GIA
Động lực và
Cảm Xúc quốc gia dùng để nuôi dưỡng Khát vọng quốc gia, gồm 5 cấp độ từ thấp đến
cao là: Sợ hãi, Sân hận, Tham muốn, Khẳng định – ái kỷ – mạn ngã, Trắc ẩn – yêu
thương – trách nhiệm. Sợ hãi là cấp độ thấp nhất của hệ động lực của một
quốc gia. Ở cấp độ này, quốc gia chỉ mưu cầu sự tồn tại, mục tiêu của quốc gia
chỉ là xóa đói giảm nghèo trong thời bình và luôn bị khống chế hoặc đe dọa bởi
ngoại bang.
Sân hận là
cấp độ cao hơn, các quốc gia có thể nỗ lực hơn khi đặt trong sự ganh đua hoặc
thù hận với một đối tượng nào đó. Đám đông cần có một kẻ thù chung, và cấp độ động
lực này tạo ra một năng lượng lớn hơn là cấp độ sợ hãi. Tham muốn là cấp độ động
lực cao hơn, nó tạo ra sự nỗ lực của toàn quốc gia trong việc tạo ra thịnh vượng
và sự hùng mạnh của quốc gia đặc biệt là trong lĩnh vực phát triển kinh tế.
Khẳng định
– ái kỷ – mạn ngã. Đây là hệ động lực cần phải có của các quốc gia đạt được quy
mô và đẳng cấp của các đế chế, đế quốc, quốc gia chủ chốt trong một nền văn
minh. Động lực khẳng định – Ái kỷ – mạn ngã, si mê sự độc đáo của quốc gia –
dân tộc mình, ngạo mạn với bản sắc và sức mạnh của quốc gia và dân tộc mình sẽ
tạo ra một nguồn năng lượng to lớn dẫn đến việc thôi thúc quốc gia đó xâm chiếm
và ảnh hưởng bằng nhiều cách lên các quốc gia khác, thậm chí là cả nhân loại.
Đây là cội nguồn của chủ nghĩa bá quyền, chủ nghĩa dân tộc cực đoan và chủ
nghĩa phát x ít.
Đây là hệ động
lực rất mạnh nhưng không có tính bền vững, về lâu về dài sự bóc lột hay áp đặt
của quốc gia mang động lực này lên các quốc gia “vệ tinh-chư hầu” sẽ tạo ra mâu
thuẫn và sự phản kháng, đồng thời, nó cũng làm suy yếu chính bản thân quốc gia
– dân tộc đó khi mà sự ái kỷ mà mạn ngã tự thân nó sớm muộn gì cũng tạo ra các
sai lầm khó có thể sửa chữa.
Trắc ẩn –
yêu thương – trách nhiệm: đây là hệ động lực cao nhất và chưa có quốc gia – dân
tộc nào có thể có được và cài đặt cho bản thân, động lực này sẽ tạo ra được những
thành tựu vô cùng to lớn và có tính bền vững cho quốc gia – dân tộc nào sở hữu
nó.
3. TRÍ HUỆ VÀ SỰ MINH TRIẾT CỦA QUỐC GIA
Trí huệ và
sự Minh triết của quốc gia, bao gồm 5 cấp độ từ thấp lên cao là: Năng lực học hỏi
– tiếp thu – bắt chước, Năng lực làm chủ – cải biên, Năng lực lập trình, Năng lực
lập thuyết, Ân điển giáo thuyết – năng lực giáo thuyết.
Cao nhất
trong cấp độ của Trí huệ là năng lực giáo thuyết. Tức là năng lực nhận lãnh hoặc
trực ngộ những kiến thức nằm ngoài tầm hiểu biết đương thời của nhân loại, hay
thường được gọi là sự mặc khải. Đây là năng lực trước giờ được dùng để khởi tạo
nên các Đức Tin tôn giáo. Lập thuyết là khả năng tạo ra các triết thuyết các hệ
tư tưởng dẫn dắt não thức của con người.
Người Do
Thái là dân tộc nổi trội trong năng lực này và nước Mỹ hiện là môi trường tốt
nhất cho năng lực này phát triển. Cuốn Kinh Thánh Cựu Ước và Tân Ước của họ
chính là cội nguồn để tạo nên toàn bộ nền văn minh Phương Tây với các nhánh
chính của Kito Giáo (Công Giáo, Chính Thống Giáo, Kháng Cách – Tin Lành) và nền
văn minh giao thoa Hồi Giáo.
Trong thời
kỳ Cận đại các cường quốc châu Âu-Mỹ : Anh, Pháp, Đức, Ý, Mỹ… cũng đóng góp rất
nhiều triết gia, nhà tư tưởng ảnh hưởng đến toàn nhân loại. Các hình thức chủ
nghĩa ý thức hệ chính trị, các quan điểm về triết học hiện sinh, chủ nghĩa nhân
bản, chủ nghĩa tiêu dùng,… hầu hết đều được xuất phát từ các tư tưởng kháng
cách của nền văn minh phương Tây nêu trên.
Lập trình
năng lực thuyết phục, chinh phục và khuất phục não thức của con người theo một
hệ đức tin hay hệ tư tưởng nào đó. Năng lực này thường được thực hiện hiệu quả
nhất thông qua một hệ thống nhất quán từ một hệ giáo dục toàn diện làm nền tảng,
hệ thống các hoạt động truyền thông-tuyên truyền nhất quán, cho đến việc đại
chúng hóa và mã hóa sâu vào trong ngành giải trí, nghệ thuật và thể dục thể
thao. Hiện tại Mỹ đang là siêu cường nổi trội nhất trong năng lực này và được
coi là hình mẫu và đối thủ để các cường quốc khác sao chép và thách thức.
Bản đồ các
danh vĩ nhân, các nhà lập thuyết, các nhà khoa học… tiêu biểu trong mọi lĩnh vực
của nền văn minh Phương Đông và Phương Tây của nhân loại.
Cấp độ tiếp
theo là Sao chép – cải biên – làm chủ. Đó là năng lực sao chép, học hỏi nhưng
sau đó làm chủ và cải biên các lý thuyết khác thành của mình hoàn toàn. Nhật Bản
là quốc gia đỉnh cao của hình thái này. Sự trỗi dậy mạnh mẽ của Trung Quốc trong
hơn 30 năm qua cũng do họ có năng lực này rất cao.
Toàn bộ các
quốc gia lớp dưới chỉ nằm ở mức học hỏi, bắt chước và tiếp thu hệ đức tin, hệ
tư tưởng, hệ học thuật của các quốc gia khác. Không thể đạt tới trí huệ khi chỉ
nằm ở phân khúc rất thấp này trong chuỗi giá trị của trí huệ. Ở phân khúc thấp
này sẽ phải luôn chịu thân phận của việc tiêu thụ các tư tưởng cũ, lỗi thời và
không trọn vẹn; trở thành các nô lệ về tư tưởng cho các đối tượng phía trên.
Dân Tộc Việt
của chúng ta được coi là một dân tộc thông minh nhưng dường như cấp độ Trí Tuệ
cao nhất mà chúng ta có được với thế giới chỉ dừng ở ngưỡng sao chép-cải
biên. Đây chính là nỗi niềm nhức nhối nhất mà những tinh hoa người Việt cần
phải cùng nung nấu và vươn lên cho xứng tầm với tiềm năng của trí tuệ dân tộc
mình.
4. QUYỀN LỰC
VÀ SỨC MẠNH QUỐC GIA
Quyền lực
và Sức mạnh quốc gia chính là trọng tâm chiến lược quyền lực quốc gia là
việc quốc gia đó đặt trọng tâm vào xây dựng năng lực và ảnh hưởng gì đối với thế
giới, cấu phần này gồm các nhóm và các cấp độ quyền lực như sau. Nhóm 3
quyền lực quốc gia cơ bản gồm có: Quyền lực mềm, Quyền lực kinh tài, Quyền lực
cứng. Ba dạng thức quyền lực này có tính chuyển hóa lẫn nhau, nhưng thường
được xây dựng theo chiều: Quyền lực mềm, Quyền lực kinh tài, Quyền lực cứng.
Ngay cả việc
hiểu cho đúng bản chất cốt tủy của ba loại quyền lực cơ bản này cũng là vấn đề
đối với các nhà lập thuyết Âu -Mỹ, là những người đầu tiên nêu ra các khái niệm
trên. Về bản chất, Quyền lực mềm chính là Quyền lực của sự hấp dẫn, thuyết phục,
chinh phục của ánh sáng minh triết, của đạo đức, của tầm nhìn, tư tưởng,
khoa học và tính hiệu quả của nó. Quyền lực kinh tài là Quyền lực đến từ
việc Thiết kế-Sản xuất-Lưu thông-Tiêu dùng-Thương hiệu của Vật chất, Tiền tệ và
Công nghệ.
Quyền lực cứng
là Quyền lực có tính quy ước hoặc các ép buộc của các Thỏa thuận-Hiệp ước-Luật
lệ-Thể chế và kể cả các chế tài An ninh – Ngoại giao – Quân sự truyền thống và
phi truyền thống. Một quốc gia có thể hiểu, thiết kế và vận hành nhuần nhuyễn
ba loại quyền lực này thì đã có thể đứng vào hàng ngũ đầu của các quốc gia phát
triển trên thế giới hiện nay.
Quyền lực
tích hợp là quyền lực có được khi 3 thứ quyền lực cơ bản nêu trên được kết hợp
hài hòa và nhuần nhuyễn một cách thông minh và hiệu quả. Quyền lực tích hợp
cũng có thể được gọi là quyền lực dữ liệu lớn tích hợp. Bởi khả năng hình
thành và phát triển một công nghệ dữ liệu lớn hợp nhất vừa là phương thức vừa
là điều kiện để có thể kết hợp hiệu quả và thông minh ba dạng thức quyền lực cơ
bản.
Nếu như quyền
lực tích hợp là không có tính định hướng nhân văn, thì sẽ tạo ra xung đột, khủng
hoảng và không bền vững; hoặc biến loài người thành nô lệ cho các phát minh
công nghệ dữ liệu, hoặc các phát minh đó trở thành công cụ để nhân loại tiếp tục
mâu thuẫn đối kháng và hủy diệt lẫn nhau.
Do đó, ở mức
độ tiến hóa cao hơn, Quyền lực tâm hợp nhất chính là dạng thức Quyền lực
tích hợp được quy định bởi động lực của tình Yêu thương, Minh triết và Trách
nhiệm.
Để chuẩn bị
kiến tạo nên một dân tộc siêu việt, một quốc gia trung tâm và nhằm trang bị kiến
thức nền tảng về binh pháp, khả năng thao lược của một dân tộc dẫn dắt, Nhà
sáng lập – Chủ Tịch Tập đoàn Trung Nguyên Legend Đặng Lê Nguyên Vũ với tấm lòng
Thiện Lành đã tâm huyết cẩn trọng lựa chọn cuốn sách “Thập Nhị Binh Thư” –
một áng văn bất hủ quy nạp những tinh hoa trong thuật dụng binh tự cổ chí kim,
tựa như tôn chỉ để khải sanh những mãnh tướng kiêu hùng chốn sa trường.
“Binh vô
thường thế, thủy vô thường hình, năng nhân địch biến hóa nhi thủ thắng giả, vị
chi thần” – Quân binh cũng như nước, không hình không dạng cố định; nếu như có
thể tùy theo tình hình biến hóa của địch mà biến đổi theo đó để giành thắng lợi,
thì đó là “dụng binh như thần”.
Tuy nhiên,
đây cũng chỉ là tập hợp tương đối đầy đủ nhất của cấp độ Mưu Thuật – Trí Thuật;
để chuẩn bị cho một dân tộc vĩ đại, trung tâm, siêu việt; thì cấp độ đó cũng là
chưa đủ mà dân tộc mình phải cùng đoàn kết luyện rèn lên mức độ của Trí Đạo
– Tâm Đạo; là cấp độ có thể thấu ngộ được quy luật tạo hoá, hiểu được Lòng Trời,
cùng quy tụ Lòng Người với những động lực và cảm xúc cao cấp và cao quý nhất.
5. SỰ ĐOÀN
KẾT TOÀN DIỆN CỦA QUỐC GIA
Sự đoàn kết
– cố kết vững bền của quốc gia; gồm 5 cấp độ và hình thức từ thấp lên cao như
sau: đoàn kết và cố kết dựa trên Mối nguy sinh tồn chung, Lợi ích chung, Lãnh tụ
chung – khuôn mẫu chung, Bản sắc – chủ thuyết – tôn giáo chung, Cội nguồn
thiêng liêng chung. Kiến tạo được, duy trì được, và phát triển được sự cố
kết nội tại của quốc gia-dân tộc luôn luôn là vấn đề mối quan tâm lớn, một bài
toán hóc búa và vấn đề nhức nhối thường trực của mọi quốc gia trên thế giới.
Hiện tại
các quốc gia trên thế giới vừa không thể có được sự đoàn kết thực sự cho chính
mình, vừa tạo ra xung đột và mâu thuẫn với các quốc gia, nhóm quốc gia khác là
do vẫn sử dụng những phương pháp và cách thức ở bậc thấp để tạo nên sự đoàn kết
– cố kết quốc gia.
Xa hơn nữa,
chính công thức cấu thành các cấp độ sức mạnh và tiến hóa của một quốc gia này
không chỉ lý giải cho sự hưng thịnh của từng nền văn minh lớn, từng đế chế hùng
mạnh, từng cường quốc ghê gớm, mà công thức còn lý giải và dự báo được cả sự
suy tàn của mọi nền văn minh, đế chế và cường quốc.
Cũng như
những va chạm và xung đột không ngừng nghỉ của các nền văn minh, các đế chế, cường
quốc luôn tạo ra nguy cơ chiến tranh, phân ly, phân rã và bất ổn cho nhân loại
khi mà chưa có bất cứ một quốc gia, một dân tộc nào vươn tới một cách đồng nhất
mọi cấp độ cao cấp nhất trong từng cấu phần của công thức.
Mục đích tối
hậu duy nhất của sự tiến hóa văn minh nhân loại cũng chỉ là để đạt tới sự đồng
nhất, thống nhất, hợp nhất và đại đồng nhân loại trong một cuộc sống thái bình,
hòa bình, hạnh phúc, trường tồn và miên viễn. Tuy nhiên, đó sẽ luôn chỉ là một
giấc mơ xa vời đối với xã hội loài người.
Quán xét thấu
suốt quá khứ với những bài học lịch sử kinh điển của quá khứ chính là
bước đầu tiên để nhân loại có thể giải quyết được những vấn đề và khủng hoảng của
hiện tại, để thấu ngộ được Công Thức lõi nhằm kiến tạo một quốc gia – dân tộc
có thể biến giấc mơ nêu trên thành hiện thực.
Công thức
này là đồng nhất và nhất quán ở mọi cấp độ cá nhân-gia đình-tổ chức-dân tộc-quốc
gia-văn minh-toàn nhân loại. Thế nên, khi một con người làm được thì một gia
đình sẽ làm được; một gia đình làm được thì cả quốc gia sẽ làm được; một quốc
gia làm được thì cả nhân loại sẽ làm được. Đây chính là cơ hội và cũng
chính là Thiên Mệnh vĩ đại định sẵn cho dân tộc Việt của chúng ta!
ĐẶNG LÊ
NGUYÊN VŨ
Chủ Tịch Tập đoàn Trung Nguyên Legend
Chủ Nhật, 20 tháng 3, 2022
MỘT NGƯỜI VIỆT TRONG DANH SÁCH HƠN 300 NHÂN VẬT LÀM RẠNG RỠ LỊCH SỬ PHÁP
Một con tem thời Đông Dương thuộc Pháp, với hình ông Đỗ Hữu Vị (1883–1916), một phi công người Việt phục vụ trong Quân đội Pháp, hy sinh trên chiến trường trong Thế chiến thứ nhất.
Ngày 12/03/2021 tổng
thống Macron cho công bố danh sách 315 nhân vật người nước ngoài đã viết những
trang sử đẹp cho nước Pháp. Trong danh sách những người nhập cư được vinh danh,
có đại úy người Việt, Đỗ Hữu Vị. Ông là phi công Đông Dương đầu tiên phục vụ
trong quân đội.
Tháng 11/2020 tổng
thống Macron đã trao trọng trách cho khoảng 20 nhà nghiên cứu, những nhà hoạt
động trong nhiều lĩnh vực từ xã hội đến nghệ thuật, đề xuất một danh sách những
người nước ngoài có công làm tỏa sáng văn hóa, lịch sử … của nước Pháp. Danh
sách chính thức được công bố vào ngày mai bao gồm tổng cộng 315 nhân vật.
Trong danh sách cuối
cùng báo La Croix đã tiếp cận được, có một người Việt. Đó là đại úy phi công Đỗ
Hữu Vị (1883-1916). Ông là phi công đầu tiên của Đông Dương chiến đấu trong
hàng ngũ không quân Pháp thời Thế Chiến Thứ Nhất. Du học tại Pháp từ bé, ông Đỗ
Hữu Vị tốt nghiệp trường sĩ quan Saint Cyr khóa 1906. Từ đó ông phục vụ quân
đội Pháp trong hàng ngũ lực lượng Lê Dương. Ông tham chiến tại Maroc và
Algerie. Năm 1914 khi Thế Chiến Thứ Nhất khai mào, ông Đỗ Hữu Vị tham gia lực
lượng không quân trinh sát. Bị thương nặng sau một trận đánh năm 1915, nhưng
rồi viên phi công gốc Việt này đã trở lại chiến trường. Đại úy họ Đỗ thiệt mạng
trong một trận đánh trên bộ ở vùng Somme, miền đông bắc nước Pháp ngày
09/07/1916.
Hơn 300 nhân vật người
nước ngoài khác được nước Pháp ghi công có những tên tuổi lẫy lừng như danh ca
người Ai Cập Dalida, nhạc sĩ Serge Gainsbourg người Do Thái gốc Nga, có danh
họa Tây Ban Nha Salvador Dali ... Về thể thao, có cầu thủ bóng đá Raymond Kopa
gốc Algerie, ông vua quyền anh gốc Sénégal, Amadou Mbarick Fall được biết đến
dưới cái tên thân mật Battling Siki. Về văn học, những tên tuổi như Aimé
Césaire hay Léopold Sédar Senghor không thể thiếu trong danh sách này.
Trong thế giới truyện
tranh, hai tác giả Albert Uderzo và René Goscinny, cha đẻ của anh chàng Gaulois
Asterix, với phong thái rất Pháp, được vinh danh là những người đã góp phần
giúp văn hóa Pháp tỏa sáng.
Theo ông Pascal
Blanchard, chủ tịch ủy ban bình chọn danh sách, hơn 300 nhân vật người gốc nước
ngoài được vinh danh lần này bao gồm đủ mọi ngành nghề, trong đó có cả những
người hoạt động trong công đoàn, các doanh nhân hay quân nhân, giới văn nghệ
sĩ…. Họ là những gương mặt tiêu biểu cho nước Pháp.
Thanh Hà
Một con tem thời Đông
Dương thuộc Pháp, với hình ông Đỗ Hữu Vị (1883–1916), một phi công người Việt
phục vụ trong Quân đội Pháp, hy sinh trên chiến trường trong Thế chiến thứ
nhất. © Wikipedia
⊙⊙⊙⊙⊙
NĐK
Thứ Bảy, 29 tháng 1, 2022
Nữ bác học đầu tiên thế giới Marie Curie: Cuộc đời là một câu chuyện thần kỳ!
Marie Curie là nhà vật lý học, nhà hóa học Pháp
gốc Ba Lan, nổi tiếng toàn thế giới về việc nghiên cứu chất phóng xạ. Bà là người
phụ nữ đầu tiên và cũng là duy nhất trên thế giới hai lần được nhận giải thưởng
Nobel trong hai lĩnh vực khác nhau, được suy tôn là nữ bác học xuất
sắc nhất trên toàn thế giới. Cuộc đời của Marie Curie là một câu chuyện thần kỳ,
với rất nhiều sự tích vĩ đại.
Bà đã dành toàn bộ tâm trí, nhiệt tình và sinh mệnh của
mình cống hiến cho sự nghiệp khoa học. Bà là tác giả của một tuyên ngôn nổi tiểng:
“Trong khoa học, điều quan trọng là phát minh ra cái gì, chứ không phải là bản thân
nhà nghiên cứu”…
Marie Curie tên thật là Maria Sklodowska, sinh ngày
7/11/1867 tại thủ đô Warsaw, Ba Lan, là con gái út trong một gia đình có 5 anh
chị em, bố mẹ đều là giáo viên. Khi còn nhỏ, Marie được đánh giá là một bé gái
thích tò mò, sáng dạ và xuất sắc ở trường. Bi kịch xảy đến với gia đình
khi người mẹ qua đời vì bệnh lao phổi, lúc Marie mới 11 tuổi.
Marie và chị gái Bronya từng mơ ước du học để có tấm bằng
đại học chính thức nhưng không đủ khả năng tài chính để chi
trả học phí. Marie quyết định đi làm để hỗ trợ chị theo học y khoa. Trong
gần 5 năm, Marie làm gia sư và giáo viên dạy trẻ để kiếm tiền trang trải chi
phí. Thời gian rảnh, cô tiếp tục nghiên cứu, đọc sách về vật lý, hóa và toán học.
Chỉ một thời gian ngắn sau khi đến Paris, nhờ những nỗ
lực phi thường, Marie đã nhanh chóng trở thành một trong những sinh viên xuất sắc
nhất của Trường đại học Sorbonne. Ngay khi đang còn là sinh viên năm thứ ba
Marie đã được cấp bằng Thạc sĩ Vật lý và đến năm thứ tư được cấp tiếp bằng Thạc
sĩ Số học. Ngoài ra, Marie còn nói, viết thành thạo các thứ tiếng: Pháp, Nga,
Anh, Đức và quyết tâm làm luận án Tiến sĩ Vật lý.
Song chính trên con đường gập ghềnh và chông gai chinh
phục đỉnh cao khoa học, Marie klodowska đã gặp và kết hôn với một nhà khoa học danh
tiếng của Pháp: Pierre Curie.
Tình yêu với Pierre Curie là mối tình thứ hai trong cuộc
đời của Marie Sklodowska. Năm 19 tuổi, khi đang làm gia sư, Marie đã có mối
tình đầu thơ mộng với anh con trai nhà chủ.
Vào kỳ nghỉ hè, Casimir – cậu con trai nhà chủ là sinh
viên từ thủ đô về nhà đã đem lòng yêu mến cô gia sư có làn da trắng mịn, tóc
vàng óng, đôi mắt to, thông minh đầy sức quyến rũ. Cô còn giỏi khiêu vũ, bơi
thuyền, trượt tuyết, cử chỉ nhã nhặn, lại có năng khiếu văn chương. Hai người
yêu nhau say đắm và đã bàn đến chuyện kết hôn. Song mối tình của họ không được
cha mẹ của chàng trai chấp nhận.
Thêm vào đó, về phía Casimir, do bản tính nhút nhát,
nông nổi đã ngoan ngoãn vâng lời cha mẹ, lập tức bỏ rơi Marie, trở về trường đại
học. Sự kết thúc của mối tình đầu ngắn ngủi đã gây cho Marie một cú sốc đến mức
tìm đến cái chết. May mà cô bạn thân đã đến kịp.
Vào đầu năm 1894. Marie nhận lời mời của Hội doanh
nghiệp Pháp nghiên cứu từ tính của các loại thép. Marie phải nhờ đến sự trợ giúp
của một giáo
sư Vật lý gốc Ba Lan. Vị giáo sư này đã giới thiệu Marie với Pierre
Curie – Trưởng phòng thí nghiệm của Trường Vật lý Paris. Pierre Curie lúc đó đã
35 tuổi, chưa vợ, nổi tiếng về những phát minh về hiện tượng điện áp, về chiếc
cân và định luật từ tính mang tên Curie. Nhà Vật lý học
tài ba này cũng mang tâm hồn nghệ sĩ, cũng viết văn và làm thơ, yêu âm nhạc,
say mê khoa học.
Chỉ vài tháng sau khi gặp gỡ, Marie và Pierre đã yêu
nhau và nhanh chóng đi đến hôn nhân. Lễ cưới của họ hết sức đơn giản, không có
nhẫn cưới, tiệc cưới, không có cả nghi thức tôn giáo. Họ đạp xe về nông thôn hưởng
tuần trăng mật. Ngay cả trong tuần trăng mật, họ cũng nói rất nhiều về lý tưởng,
công việc và các thí nghiệm.
Hai năm sau ngày cưới, Marie Curie sinh con gái đầu
lòng và chuẩn bị bảo vệ luận án tiến sĩ vật lý. Bà đã chọn hiện tượng phóng xạ
của nguyên tố Urani làm đề tài nghiên cứu. Phải chạy vạy mãi hai vợ chồng Pierre Curie mới
mượn được một gian hầm ẩm thấp để làm phòng thí nghiệm. Với hàng ngàn phép tính
toán và đo đạc.
Ngót chục năm sau, hai vợ chồng Curie phát hiện ra một
nguyên tố phóng xạ mới có cường độ phóng xạ mạnh gấp 400 lần so với Urani
nguyên chất. Bà đã dùng tên của Tổ quốc Ba Lan để đặt tên cho nguyên tố đó:
Poloni. Ít lâu sau, hai vợ chồng lại phát hiện thêm nguyên tố có cường độ phóng
xạ cực mạnh, đó là Radi. Vì tinh luyện Radi từ quặng Pêchbơlăng rất vất vả và tốn
kém, hai vợ chồng Curie quyết tâm tìm cách sáng chế.
Sau bốn năm trời với hàng ngàn thí nghiệm, hai vợ chồng
Curie đã luyện thành công chất Radi. Với thành công này, năm 1903. Viện Khoa học
Hoàng gia London trao tặng hai ông bà Huy chương Devy và một tháng sau Viện Hàn
lâm khoa học Thụy Điển trao tặng hai người giải thưởng
Nobel Vật lý. Trường đại học Paris phong tặng bà Marie Curie danh hiệu
Tiến sĩ khoa học Vật lý xuất sắc.
Nhớ lại thời gian ấy, Marie Curie nói: ” Sau khi từ
phòng thí nghiệm trở về nhà, đầu óc chúng tôi vẫn cứ còn vương vấn về hiện tượng
lạ trong phòng thí nghiệm. Tôi rủ Curie quay lại. Vừa mở cửa, cả hai chúng tôi
sững sờ vì muối Radi trong lọ phát ra tia huỳnh quang màu xanh lấp lánh như sao
trên bầu trời đêm. Chúng tôi ôm chầm lấy nhau, ứa nước mắt vì sung sướng.
Gần 4 năm trời ròng rã đó, chúng tôi không có tiền,
cũng chẳng một ai giúp đỡ, song tôi có thể nói không chút khoa trương rằng, mấy
năm đó là thời kỳ anh dũng và cũng hạnh phúc nhất trong cuộc sống của hai vợ chồng
tôi…”.
Năm 1906, một tai họa đã đột ngột giáng xuống cuộc đời
của Marie Curie. Trên đường tới Viện Hàn lâm khoa học, Pierre bị tai nạn giao
thông và qua đời. Marie Curie không chỉ mất đi một người chồng hết mực yêu
thương, mà còn mất đi một chiến hữu đồng cam cộng khổ, một chỗ dựa vững chắc
trên con đường vươn tới đỉnh cao khoa học.
Một năm sau, Marie Curie được nhận chức giáo sư thay
thế chồng giảng dạy tại Trường đại học và trở thành nữ giáo sư đầu tiên ở Trường
đại học Paris. Với nghị lực phi thường, vừa phải một mình nuôi hai con nhỏ, vừa
đảm đương công việc dạy học và nghiên cứu khoa học, năm 1911 Marie Curie lại một
lần nữa nhận giải Nobel Hóa học. Chính phủ Pháp quyết định tặng bà Huân chương
Bắc đẩu bội tinh.
Marie Curie đã hiến thân cho khoa học dũng cảm và vô
tư. Sau khi chất Radi xuất hiện, người ta phát hiện tia phóng xạ của nó có thể
xuyên qua cơ thể, phá hoại các tế bào bệnh lý, do đó Radi trở thành một vũ khí
hữu hiệu chống bệnh ung thư. Giới đầu tư các nước đua nhau trả giá thật cao để
mua phương pháp tinh luyện Radi của bà. Có người khuyên bà cách độc quyền lũng
đoạn. Nhưng bà không hám lợi. Bà cho rằng phát minh khoa học là để mưu cầu hạnh
phúc cho nhân loại, chứ không phải mưu lợi cho cá nhân. Vì thế bà đã công bố
cho toàn thế giới biết phương pháp tinh luyện Radi.
Năm 1914, bà được cử làm Giám đốc Viện Radi ở Paris.
Đây là cơ sở đầu tiên sử dụng Radi điều trị bệnh ung thư. Trong Chiến tranh thế
giới thứ nhất, Marie Curie cùng con gái là Iren đã ra sức ứng dụng tia Radi để
cứu người.
Năm 1921, Marie Curie trên cương vị Giám đốc Viện Radi
cùng con gái là Iren sang thăm nước Mỹ. Tổng thống Mỹ đã
tặng bà một gram Radi. Bà đã đề nghị ghi rõ trong chứng thư rằng đó là món quà
tặng bà để tiến hành nghiên cứu khoa học chứ không phải để làm tài sản riêng.
Năm 1922, bà được bầu làm Viện sĩ Viện Hàn lâm Y học
Pháp. Cùng năm này, Ủy ban Quốc tế hợp tác tri thức của Hội Quốc liên tại
Geneve bầu bà làm Phó chủ tịch của tổ chức. Bà đã cống hiến cả sinh mạng cho
khoa học.
Ngày 14 tháng 7 năm 1934, Marie Curie qua đời. Các bác
sĩ cho biết, bà bị trúng độc Radi. Do bị bức xạ lâu dài, nội tạng của bà bị tổn
thương nghiêm trọng. Thi hài của bà được mai táng tại ngoại ô Paris, bên cạnh
Pierre Curie.
Để ghi nhớ cống hiến lớn lao của nữ bác học kiệt xuất
trong việc nghiên cứu các nguyên tố mang tính phóng xạ, người ta đã gọi đơn vị
cường độ tính phóng xạ là “Curie”! Marie Curie mất đúng vào năm con gái và con
rể là Iren Jolit Curie và Federic được tặng thưởng giải Nobel về Hóa học.
Tổng hợp
Trị viêm đại tràng
Ai có bệnh nên dùng, bài này cũng là kinh nghiệm của già làng, nay thấy bạn này chia sẻ TL đưa luôn! *** “Người Trung Quốc nói người việt na...

-
Hà Nội một ngày tháng 11 tiết trời trở lạnh, khu điều trị tích cực Bệnh viện Hữu nghị Việt – Xô nằm trên tầng 8 im ắng đến đáng sợ...
-
VỤ ÁN HỒ DUY HẢI Mẹ của Hồ Duy Hải Trong mười hai năm trời Cầm đơn xin kháng cáo Gõ cửa ở nhiều nơi Vụ án Hồ Duy Hải ...
-
Tổng hợp tài liệu dành cho người mất gốc http://olalink.org/mKpVsctd ngữ pháp tiếng anh cho học sinh mất gốc http://olalink.org/T...
-
CUỘC ĐỜI ĐỨC PHẬT THÍCH CA Phần 1: Cuộc sống ban đầu và hôn nhân Thơ: Đỗ Tấn Thích Vào thế kỷ thứ tư Thời đại...
-
Nhận xét: Những nhận xét dưới đây hoàn toàn là chủ quan, dựa trên các thông tin đọc được trên báo và trên mạng kết lại, cho nên tôi luôn...
-
Ta đã biết, việc hình thành "văn hóa đọc" là rất khó đối với mỗi con người trong xã hội hiện nay. Theo thống kê, ở nước ta ...
-
EM CÓ VỀ QUẢNG NGÃI VỚI ANH KHÔNG Thơ: Đỗ Tấn Thích Em có về Quảng Ngãi với anh không? Quê đó có sông xanh, cánh đồng bát ngát ...
-
10 CÂU CHUYỆN CỰC NGẮN ĐÁNG SUY NGẪM (từ FB Dieu Le) ** Câu chuyện thứ nhất: Một cậu học trò lớp ba viết ...
-
XEM XÉT KỶ LUẬT NHỮNG SAI PHẠM CỦA BÍ THƯ VÀ CHỦ TỊCH TỈNH QUẢNG NGÃI Bí thư cùng Chủ tịch Của tỉnh Quảng Ngãi này Hôm nay ...