Tổng số lượt xem trang

Hiển thị các bài đăng có nhãn Những Người Thầy. Hiển thị tất cả bài đăng
Hiển thị các bài đăng có nhãn Những Người Thầy. Hiển thị tất cả bài đăng

Chủ Nhật, 20 tháng 3, 2022

CÂU CHUYỆN VỀ MỘT BÀI VĂN ĐIỂM THẤP...!

 


(Đinh Tuấn)

Một thanh niên nhìn thấy người Thầy thời tiểu học của mình tại một đám cưới. Anh ta đến chào người thầy với tất cả sự kính trọng:

-Thầy ơi...!

-Thầy có nhớ em không ạ...?

Thầy giáo nói:

- Thầy không nhớ lắm, hãy nói về em xem nào...?

Thời em còn đi học, thầy đã trực tiếp dạy em...!

Người học trò nói: Em đã học lớp Ba của thầy hồi đó, em đã thi môn Tập làm văn, chỉ có điểm 2, là điểm thấp nhất trong lớp. Em chắc là thầy nhớ chuyện đó mà...!

Em còn nhớ...! Các bạn trong lớp rất giỏi văn và rất nhiều bạn khác cũng viết tốt. Chỉ có em là điểm thấp nhất lớp...! Giây phút đó em thật sự lo sợ..., Thầy sẽ nêu tên em ra trước các bạn trong lớp.

Sợ thầy đọc bài ấy cho cả lớp nghe. Nhưng không... Thầy xếp lại gọn gàng và cất lại trong cặp.

Thầy đã không nêu tên về tác giả bài văn “bét” đó. Thầy không nói với em một lời nào và cũng không bao giờ đề cập chuyện đó với bất cứ ai. Suốt những năm tiểu học, không một giáo viên hay học sinh nào biết và nói với em về chuyện làm văn dở. Em nghĩ Thầy đã “cứu vớt” cho “danh dự” của em ngày đó, một học sinh còn bé chưa đầy 10 tuổi...

Thầy không nhớ em sao...? Sao thầy lại không nhớ em được, thưa Thầy...! Em chắc là thầy phải nhớ câu chuyện em không muốn làm em xấu hổ. Đó là một câu chuyện không thể nào quên...!

Người thầy đáp:

-Thầy không thể nào nhớ được vì bài làm văn của em dù có giỏi hay tệ, nhưng đó chính là cảm xúc của em. Bất cứ ai cũng trân trọng những cảm xúc chân tình của người khác. Thầy cũng nên làm thế...!

Thầy nghĩ rằng: Bài văn của em nhất thời chưa trau chuốt, chưa đi vào trọng tâm của đề bài, nhưng tình cảm của em trong bài thì có...! Điểm số của em nhận được, dù thấp, đó chính là bài học quý cho em...! Thầy không muốn số điểm thấp sẽ còn nữa... Cho nên Thầy không nên biết người đó là ai, và cũng không nên nhắc lại việc đó vì Thầy tin rằng: “Em sẽ tự biết sửa đổi, biết đứng lên khi bị vấp ngã trong cuộc đời sau này...!”

Giáo dục là làm cho con người biết hướng thiện...!

Giáo dục không phải là sự trừng phạt...!

Tôi đã đúc kết lại bằng một bài học nhân văn: "Một người dẫn dắt phải là người biết VUN XỚI, chứ không phải là TRIỆT HẠ...!”.

(Đinh Trực-Chuyện Làng Quê)

 

MẸ KẾ...!

 

(Nguồn: Trái tim nhân ái-Đinh Trực sưu tầm).

Thằng Tí tên thật là Đại, mẹ nó mất khi nó còn nhỏ xíu, khi nó lên sáu tuổi thì ba nó rước dì về...

Dì khó lắm, vì ba nó là ngư dân nên ra biển thường xuyên vắng nhà...

Nó phải ở nhà với dì, nó sợ lắm...!

Dì cấm không cho nó đi đá banh ngoài đường, dì bắt nó phải rửa tay sạch sẽ xong mới ăn cơm, dì là người nghiêm khắc nên hay bắt nó luyện viết chữ, dạy nó làm toán, tóc tai, móng tay móng chân, dì cắt gọn hết...

Dì bắt nó gọi dì là Mẹ, nó không thích, mà không dám cãi...!

Chỉ lúc ghe của ba về nó mới vui, vì được gặp ba, ba hôn nó, nhưng lại luôn khen và cảm ơn dì...!

Một ngày khi nó lên tám, có người đến báo tin gì đó..., nghe xong dì hốt hoảng chạy như điên dại ra ngoài biển gào khóc...! Nó cũng hoảng loạn chạy theo dì và khóc...!

Dì ôm nó nói chẳng thành câu:

"Ba...không về ..nữa rồi con ơi, ..ba bỏ mẹ con mình rồi...!".

Năm tháng trôi qua, cứ vậy nó sống với dì, dì vẫn vậy: bắt học hành, cấm đá bóng ngoài đường, không cho chơi game nhiều, không cho chơi trò bạo lực...

Hôm đó, nó lại bị dì mắng dữ dội, về tội tắm mưa đầu mùa, dì nói mưa đó rất độc, sẽ bệnh cho mà xem. Mà nó không nghe...

Tối đó, đầu nó nặng trịch, nó lên cơn sốt người run cầm cập, dì cho nó uống thuốc, lau người, chườm nóng cho nó mà vẫn sốt vẫn không bớt, một lúc sau thì tay chân nó co ríu lại. Dì xốc nó cõng qua trạm Y tế cạnh nhà. Trong cơn mơ hồ, nó nghe dì khóc, giọng đứt quãng như cái lần người ta báo tin ba nó không về nữa:

"Con ơi..! Ba con mất rồi... con mà có gì mẹ sống sao...!"

Nó bệnh một trận hơn tuần, nó thấy dì ốm hẵn, mắt quầng thâm, hối hận trào dâng, nó ôm dì và nói: "Mẹ ơi! Con xin lỗi mẹ...!"

Và từ đó, nó không làm mẹ buồn lần nào nữa...!

Khi Tí vào đại học năm 2, ba anh bất ngờ trở về, sang trọng giàu có, ba anh muốn nhận anh, muốn rước anh vào thành phố lo cho anh một tương lai tươi sáng, nhưng lại không rước mẹ, vì bên ba anh đã có người phụ nữ đẹp, giàu có.

Mẹ lau dòng nước mắt..., khuyên anh theo ba. Nhưng anh khăng khăng:

"Con vẫn học ở đây, con vẫn ở với mẹ, ba đã có gia đình kia rồi, còn mẹ chỉ có mình con...!".

Thuyết phục anh không được ba anh rời đi, anh nghe "mẹ mới" lầu bầu nói với theo: “Ngu xuẩn...”

Anh ra trường, đi làm và đưa người yêu về ra mắt mẹ, mẹ mừng lắm. Cười tít cả mắt, lâu rồi anh chưa thấy mẹ vui như vậy....! Nhưng khi ra về, người yêu anh lại tỏ ý ngại ngần, ngại sống chung với mẹ chồng. Anh kể cho cô nghe một câu chuyện và kết luận:

"Em biết không...? Anh không phải là đứa con nẩy mầm và sinh ra từ trong bụng mẹ, nhưng mà mầm sống yêu thương của anh lại nẩy mầm và lớn lên từ trong trái tim nhân ái của mẹ...!"

( Chuyện Làng Quê)

 

Thứ Năm, 3 tháng 2, 2022

VUA THĂM THẦY CŨ



Mùng 3 tết thầy. Câu chuyện vua Lê Hiến Tông thân hành đến thăm thầy dạy học cũ của mình là Châu Khê đến nay vẫn được truyền tụng như là nét đẹp của truyền thống tôn sư trọng đạo.

Tiết xuân năm 1502, vua Lê Hiến Tông (trị vì 1497-1504) về làng Tri Lai, xã Phượng Lai, huyện Vũ Tiến, phủ Kiến Xương, trấn Sơn Nam (nay thuộc xã Phú Xuân, TP Thái Bình, tỉnh Thái Bình) thắp hương đền thờ bà nội của mình là bà Ngô Thị Ngọc Dao. Sau đó vua thân hành đến thăm nhà giáo Châu Khê, nguyên Thượng thư bộ Lễ, nguyên thầy dạy học của mình, nay trí sĩ cùng làng.

Thơ ghi công ơn thầy

Hay tin vua Hiến Tông đến thăm, nhà giáo Châu Khê bày hương án, ra tận ngõ nghênh tiếp. Dân làng cũng lũ lượt kéo về. Được tận mắt chứng kiến vua đến thăm thầy cũ, đây là một sự kiện hiếm có nên ai cũng nao nức.

Vừa xuống kiệu rồng, vua Lê Hiến Tông thấy nhà giáo Châu Khê đang phủ phục trước ngõ tiếp đón. Vua vội bước đến đỡ thầy lên và nói:

“Xin tôn sư bình thân, đừng để đệ tử này phải thất lễ”.

Bấy giờ nhà giáo Châu Khê mới đứng dậy mời vua vào nhà. Lão tôn sư đi trước, Hiến Tông đi sau khép nép như cậu học trò ngày nào.

Bước lên bậc thềm, Hiến Tông nghiêng mình mời thầy ngồi vào bộ phản kê ở giữa nhà. Trong căn nhà đơn sơ của vị tôn sư, đó là nơi trang trọng nhất. Còn vua xin đứng cạnh hầu thầy. Vị tôn sư vội xua tay:

“Bẩm Hoàng thượng, làm thế không được. Tình thầy trò phải giữ gìn là một lẽ nhưng thứ bậc vua tôi phải rõ ràng không phút khinh suất. Xin bệ hạ ngự tiền cho để lão phu đây có diễm phúc hầu quạt”.

Hiến Tông cười: “Thưa tôn sư, hôm nay đệ tử đến đây với tư cách trò đến thăm thầy, chứ nào phải buổi làm việc vua tôi. Thôi, xin phép cho đệ tử ngồi chung với thầy vậy”.

Sau một hồi nhường nhịn, thầy và trò cùng ngồi lên bộ phản. Giữ đúng lời, suốt buổi vua không đề cập chuyện triều chính. Vị tôn sư cũng ý tứ chỉ nói chuyện điền viên thi phú. Bởi vậy không khí thật thân mật. Cộng với tiết xuân mát mẻ làm lòng người cũng thêm vui.

Nhấp chén trà sen, cụ Châu Khê đọc bài thơ Tuế mộ thuật hoài (Tỏ nỗi lòng) cho vua nghe:

“Mạc mạc vân sơn nhập mộng đa

Mỗi phương tuế án bội tư gia

Mãn tiền phong vật tri tâm thiểu

Huống phục lưu niên mấn dĩ hoa”

Dịch nghĩa:

“Mây núi mênh mang thường chập chờn trong giấc mộng

Cứ mỗi lần cuối năm, lại nhớ nhà da diết

Cảnh vật đầy trước mắt, nhưng người tri âm ít

Huống gì năm tháng trôi qua, mái đầu đã bạc”.

Cảm khái trước lời thơ giàu cảm xúc của thầy, Hiến Tông bèn đọc bài Tứ Lễ bộ Thượng Thư Nguyễn Bảo (Gửi Lễ bộ Thượng thư Nguyễn Bảo) để tặng thầy:

“Vi các đa niên đối chưởng luân

Bạch đầu nhập tọa duệ phi tân

Quân vương hạ nhật vô dư sự

Thảo tự thành thư tứ cựu nhân”.

Dịch:

“Gác tía lâu năm thảo chiếu rồng

Bạc đầu chức trọng áo màu hồng

Trẫm nhân lúc rỗi không công việc

Viết bức thư này gửi tặng ông”.

Lời lẽ bài thơ chân thành, bịn rịn làm tình thầy trò càng thêm nồng ấm.

Một đời dạy vua

Nhà giáo Châu Khê tên thật là Nguyễn Bảo, đỗ tiến sĩ năm 1472 lúc mới 20 tuổi dưới triều Lê Thánh Tông (trị vì 1460-1497). Thấy ông tri thức uyên bác, dung mạo quắc thước, phong cách đĩnh đạc, vua Thánh Tông liền bổ ông làm học sĩ ở tòa Đông các kiêm Tả tư giảng dạy học cho các hoàng tử.

“Đào tạo con người là việc lớn, huống hồ nay lại được giao dạy dỗ các hoàng tử, hạ thần thật không dám nhận lãnh trọng trách. Nhưng nay bệ hạ tin dùng, thần xin đem tài hèn này ra cáng đáng. Hứa ngày ngày cẩn trọng chuyện chữ nghĩa, trau dồi đạo đức mà rèn thân dạy người”- nhà giáo Châu Khê nói khi nhậm chức.

Vua quả không lầm người, Châu Khê chứng tỏ là một nhà giáo tâm tài toàn vẹn. Ông không chỉ truyền thụ kiến thức mà còn dạy các phép ứng xử của bậc minh quân đối với sơn hà xã tắc. Với tài năng và đức độ của mình, nhà giáo Châu Khê đã thuyết phục và chiếm được lòng tin của vua Lê Thánh Tông. Trải hơn hai mươi năm dạy học ở Đông cung, mặc bao thế sự thăng trầm, triều thần hoán chuyển, cuộc sống vật đổi sao dời nhưng vị trí nhà giáo Châu Khê là người không thể thay thế.

Năm 1490, nhà giáo Châu Khê được cử làm Tư giảng chính thức. Trong số 13 hoàng tử được nhà giáo Châu Khê dạy dỗ nhiều năm có thái tử Tranh sau được nối ngôi vua, hiệu Lê Hiến Tông. Khi Hiến Tông lên ngôi, nhà giáo Chạu Khê được cử làm Tả Thị lang bộ Lễ, tham dự và coi công việc ở Viện Hàn lâm. Năm 1501, ông được thăng Thượng thư bộ Lễ kiêm Thị độc Viện Hàn lâm.

Năm 1497, lên ngôi vua, mọi việc triều chính lớn nhỏ Lê Hiến Tông đều tham khảo ý kiến vị tôn sư. Người đời nhận xét chỉ có bậc minh quân mới biết lấy cái sáng suốt của người thầy để soi rọi vào công việc trị nước. Quả thật, nhờ vào sự dạy dỗ của bậc tôn sư, Lê Hiến Tông được người đời sau ca ngợi hết lời. Sử sách nhận xét: Lê Hiến Tông là một vị vua thông minh, nhân từ và ôn hoà.

Sách Đại Việt sử ký toàn thư nhận xét về Lê Hiến Tông: “Vua thiên tư anh minh thông tuệ, giữ vận thịnh trị, thái bình, mới trong khoảng bảy năm mà thiên hạ bình yên, xứng đáng là bậc vua giỏi giữa cơ đồ.”

Mặc dù được vua Lê Hiến Tông rất mực trọng dụng nhưng chỉ vài năm sau nhà giáo Châu Khê xin về hưu trí.

Bát canh cua đồng

Trời đã xế trưa, vua Hiến Tông lấy làm khoan khoái nói với cận thần tả hữu: “Trẫm cho các ngươi lui. Trưa nay ta không ngự thiện đâu. Trẫm xin với lão tôn sư đây cho trẫm dùng bữa cơm gia đình cho thỏa tình sư đệ. Chắc lão tôn sư sẵn lòng cho phép”. Nghe vậy, tôn sư Châu Khê vô cùng cảm động, hối gia nhân làm cơm đãi vua.

Khoảng cách vua tôi hôm ấy nhường chỗ cho tình thầy trò. Họ ngồi đối ẩm với rượu nếp quê nhà, hương thơm mộc mạc mà say đắm tình quê khiến cho buổi ngâm nga thơ phú càng thêm hứng thú. Vị tôn sư có lẽ còn vui hơn cả nhà vua, bởi lẽ là ông có học trò ở ngôi nhất nước vẫn giữ lễ nghi, đối đáp bằng tình nghĩa thầy trò, tuyệt không dùng đến quyền uy, điều mà ông gửi gắm qua việc giảng sách bình thơ hàng chục năm trước. Ông càng hài lòng vì vị vua từ nhỏ sống trong lầu son gác tía vẫn không quên những món ăn dân dã. Như thế là lối sống của vua không quá tách rời dân.

Hôm đó, trong các thức ăn có món canh cua đồng được vua Hiến Tông tấm tắc khen ngon.

“Thầy cho trò bát canh cua đồng như ban cho con một niềm vui. Canh cua đồng có vị bùi, ngọt, đậm đà hương vị đồng quê”- Hiến Tông nói.

Sách vở còn chép lại sau buổi cơm dân dã ở nhà thầy Châu Khê, ở vùng quê Thái Bình đến nay vẫn còn truyền tụng hai câu ca dao:

Canh cua nấu cải thêm gừng

Xưa nay vua chúa đã từng khen ngon.

 

Chủ Nhật, 16 tháng 1, 2022

Sự khác biệt giữa thức ăn Việt và Tàu

 


GS Trần Văn Khê

Thật ra, tôi rất ngại khi cầm viết ghi lại những câu hỏi đã trả lời cho những bạn bè người nước ngoài khi họ hỏi tôi: Người Việt Nam ăn uống thế nào? Hay là cách nấu ăn của người Việt có khác người Trung Quốc hay chăng?

Vì đó chỉ là những phần nhận xét đã được nhanh chóng đúc kết để đưa ra những câu giải đáp kịp thời chớ không phải do một sự sưu tầm có tính cách khoa học. Trong câu chuyện, một vài bạn trong báo Tuổi Trẻ thấy nhận xét sơ bộ của tôi có phần nào lý thú, nghe vui tai nên nhờ tôi ghi ra thành văn bản. Nể lời các bạn, tôi xin gởi đến các bạn đọc vài mẩu chuyện có thật về cách ăn và nấu ăn của người Việt chúng ta, và xin các tay nghề nấu ăn trong nước đừng cười tôi dốt hay nói chữ, dám múa búa trước cửa Lỗ Bang, đánh trống trước cửa nhà Sấm.

Trong một buổi tiệc, một anh bạn Pháp hỏi tôi: “Chẳng biết người Pháp và người Việt Nam ăn uống khác nhau như thế nào?” Tôi rất ngại so sánh… tôi trả lời… vì so sánh là biết rõ rành mạch cả hai yếu tố để so sánh.

Thỉnh thoảng tôi có ăn uống theo người Pháp nhưng làm sao biết cách ăn của người Pháp bằng người Pháp chính cống như anh. Tôi thì có thể nói qua cách ăn uống của người Việt chúng tôi. Để cho anh dễ nhớ, tôi chỉ đưa ra ba cách nấu ăn của người Việt, rồi anh xem người Pháp có ăn như vậy chăng?




Người Việt chúng tôi ăn toàn diện, ăn khoa học, ăn dân chủ

1.Ăn toàn diện: Chúng tôi không chỉ ăn bằng miệng, nếm bằng lưỡi, mà bằng ngũ quan.

Trước hết ăn bằng con mắt, và do đó có nhiều món đem dọn lên, nhiều màu sắc chen nhau như món gỏi sứa chúng tôi chẳng hạn: Có giá màu trắng, các loại rau thơm màu xanh, ớt màu đỏ, tép màu hồng, thịt luộc và sứa màu sữa đục, đậu phộng rang màu vàng nâu, v.v… Có khi lại tạo ra hình con rồng, con phụng, trong những món ăn nấu đãi đám hỏi, đám cưới.

Sau khi nhìn cái đẹp của món ăn, chúng tôi thưởng thức bằng mũi, mùi thơm của các loại rau thơm như húng quế, ngò, hoặc các mùi đặc biệt của nước mắm, của cà cuống.

Răng và nứu đụng chạm với cái mềm của bún, cái dai của thịt luộc và sứa, cái giòn của đậu phộng rang để cho xúc cảm tham gia vào việc thưởng thức món ăn sau thị giác và khứu giác. Rồi lỗ tai nghe tiếng lốc cốc của đậu phộng rang, hay tiếng rào rào của bánh phồng tôm, hay tiếng bánh tráng nướng nghe rôm rốp. Sau cùng lưỡi mới nếm những vị khác nhau, hòa hợp trong món ăn: lạt, chua, mặn, ngọt, chát, the, cay, v.v… Chúng tôi ăn uống bằng năm giác quan, về cái ăn như thế gọi là ăn toàn diện.

2. Ăn khoa học: Hiện nay, nhiều nhà nghiên cứu, nhất là ở Nhật Bổn thường hay sắp các thức ăn theo “âm” và “dương”. Nói một cách tổng quát thì những món nào mặn thuộc về dương, còn chua và ngọt thuộc về âm.

Người Việt thường trộn mặn với ngọt làm nước mắm, kho thịt, kho cá, rang tép, ướp thịt nướng, luôn luôn có pha một chút đường; mà ăn ngọt quá như chè, ăn dưa hấu hay uống nước dừa xiêm thì cho một chút muối cho âm dương tương xứng.

Người Tây khi ăn bưởi thật chua lại cho thêm đường, đã âm lại thêm âm thì âm thịnh dương suy, không đúng theo khoa học ăn uống.

Người Việt phần đông không nghiên cứu về thức ăn, nhưng theo truyền thống của cha ông để lại thành ra ăn uống rất khoa học. Người Việt chẳng những để ý đến quân bình âm dương giữa các thức ăn mà còn để ý đến quân bình âm dương giữa người ăn và thức ăn. Khi có người bị cảm, người nấu cháo hỏi: Cảm lạnh (bị mắc mưa, đêm ra ngoài bị cảm sương) thì nấu cháo gừng vì cảm lạnh (âm) vào người phải đem gừng (dương) vào chế ngự. Nếu cảm nắng (bị mặt trời làm cho sốt) thì dương đã vào người phải nấu cháo hành (âm).

Lại nghĩ đến âm dương giữa người ăn và môi trường; mùa hè thời tiết có dương nhiều nên khi ăn có canh chua (âm) hoặc hải sâm (âm); mùa Đông thời tiết có âm nhiều nên ăn thịt nướng. Ta có câu: Mùa Hè ăn cá sông, mùa Đông ăn cá biển.

Quân bình trong âm dương còn thể hiện qua điếu thuốc lào. Thuốc lá phơi và đóm lửa (dương) hít một hơi cho khói qua nước lã trong bình (âm) để hơi khói thuốc vào cơ thể, nguồn hút có cả dương và âm, không kể nước đã lọc bớt chất nicotine có hại cho buồng phổi.

Chẳng những cân đối về âm dương mà còn hàn nhiệt nữa: Thịt vịt hay thịt cá trê (hàn) thì chấm với nước mắm gừng (nhiệt) Cách ăn của người Việt Nam khoa học vì phù hợp với nguyên tắc âm dương tương xứng hành nhiệt điều hòa. Ngoài ra trong một món ăn thường đã có chất bột, chất thịt, chất rau làm cho sự tiêu hóa được dễ dàng.

3. Ăn dân chủ: Trên bàn dọn bao nhiêu thức ăn, nhưng chúng tôi có thể ăn những món chúng tôi thích, hoặc phù hợp với vấn đề bảo vệ sức khỏe của chúng tôi. Ăn ít hay ăn nhiều thì tùy theo sức chứa bao tử của chúng tôi, chớ không phải ăn những món không ăn được, hay là ăn không nổi. Như vậy cách của người Việt Nam rất dân chủ.

Anh bạn người Pháp thích chí cười to: “Ăn toàn diện, chúng tôi chưa nghĩ đến là về thính giác, ăn mà nghe tiếng động là vô phép nên ăn bớt ngon. Ăn khoa học, thì chúng tôi chỉ nghĩ đến calory mà không biết âm dương và hàn nhiệt. Còn ăn dân chủ, thì hoàn toàn thiếu sót vì đến nhà chúng tôi có một thực đơn mà mỗi người một đĩa, ăn không hết sợ vô phép nên nhiều khi không ngon lắm hoặc quá no cũng phải cố gắng ăn cho hết. Tôi xin hoàn toàn hoan nghinh cách ăn của người Việt Nam.”

Về cách ăn uống Việt Nam lại có thêm:

1. Ăn cộng đồng: Thức ăn đầy bàn mà có một nồi cơm, một tô nước mắm để mọi người cùng xới cơm và chan nước mắm ở một nơi.

2. Ăn lễ phép: Con lớn lên đã theo học ăn, học nói, học gói, học mở. Học ăn là trước nhứt, khi ăn phải coi nồi, ngồi coi hướng.

3. Ăn tế nhị: Ăn ớt từ cách cắn trái ớt, có khi phải ăn ớt xắt từng khoanh, ớt bằm, ớt làm tương. Nước chấm nhứt là ở miền Trung rất tinh tế, ăn món chi phải có nước chấm đặc biệt món nớ: bánh bèo, bánh lá, bánh khoái đều có nước chấm khác.

4. Ăn đa vị: Một miếng nem nướng đã có vị thịt, riềng, muối, tỏi, hành cuốn vào bánh tráng lạt lạt, có chút bún, rau thơm, ớt (cay), chuối sống (chát), khế (chua), tương (ngọt, mặn cay) có pha hột điều hay đậu phộng xay (béo). Ăn có năm vị chánh: Ngọt, mặn, chua, cay, béo; có cả ngũ sắc đen (tương), đỏ (ớt), xanh (rau), vàng (khế chín), trắng (bánh tráng, bún). Ăn một miếng mà thấy 5 màu, lưỡi nếm 5 vị và có khi hơn thế nữa.

Một lần khác, một anh bạn của tôi khai trương một tiệm ăn lớn tại Paris. Anh có mời đài phát thanh và báo chí đến để cho biết rằng tiệm của anh có cả thức ăn Trung Quốc và Việt Nam.

Các phóng viên muốn biết Việt Nam và Trung Quốc nấu ăn có khác nhau như thế nào, Hai đầu bếp Việt Nam và Trung Quốc được mời ra để báo chí hỏi thì hai người đều khẳng định là cách nấu ăn rất khác, nhưng phải xuống bếp coi mới thấy.

Nhà bếp nhỏ không chứa được mấy chục phóng viên, và ai cũng ngại hôi dầu hôi mỡ, nên ông chủ tiệm nhờ tôi tìm câu trả lời cho các nhà báo. Tuy không phải là một chuyên gia về nghệ thuật nấu bếp, nhưng tôi cũng phải tìm câu trả lời thế nào để cho các nhà báo bằng lòng. Tôi mới nói rằng, tôi không đi vào chi tiết nhưng chỉ đưa ra ba điểm khác nhau trong cơ bản.

1. Người Việt Nam thường dùng bột gạo trong khi người Trung Quốc thích dùng bột mì. Cho nên Việt Nam có phở, hủ tiếu, bún thang, bún bò, bún riêu; mà người Trung Quốc thì chuyên về mì nước, mì khô, mì sợi nhỏ, mì sợi lớn, mì vịt tiềm. Người Việt làm bánh đùm, bánh xếp, bánh cuốn, bánh hỏi; người Trung Quốc thì bánh bao. Chả giò người Việt Nam cuốn bằng bánh tráng bột gạo; còn người Trung Quốc thì cuốn tép trong bánh bằng bột mì.

2. Nước chấm cơ bản của người Việt nam là nước mắm là bằng cá; còn nước chấm của người Trung Quốc là xì dầu làm bằng đậu nành.

3. Người Việt thì thường pha mặn ngọt; người Trung Quốc thích chua ngọt.

Chỉ nói đại khái như vậy mà các phóng viên đã hài lòng; về viết bài tường thuật nêu lên những điểm khác nhau ấy. Ông Giám Đốc Tạp Chí Đông Nam Á, sau lời nhận xét đó, cho phóng viên đến phỏng vấn tôi thêm và hỏi tôi có biết yếu tố nào khác đáng kể khi nói về cách nấu ăn của người Việt khác người Trung Quốc ở chỗ nào. Tôi trả lời cho phóng viên trong 40 phút.

Hôm nay tôi chỉ tóm tắt cho các bạn những điểm chính sau đây:

1. Về rau: Người Việt tuy có ăn rau luộc, hay xào; nhưng thích ăn rau sống, rau thơm, mà người Trung Quốc không ưa ăn rau sống, cải sống, giá sống.

2. Về cá: Người Trung Quốc biết kho, chưng, chiên như người Việt Nam. Nhưng người Trung Quốc không làm mắm như người Việt. Có rất nhiều cách làm mắm và ăn mắm: Mắm thái, mắm nêm, mắm ruốc, mắm tôm, v. v… Các nước Đông Nam Á cũng có làm mắm nhưng không có nước nào biết làm nhiều loại mắm như người Việt.

3. Về thịt: Người Trung Quốc biết quay, kho, luộc xào, hầm như người Việt, mà không biết làm nem, bì và các loại chả như chả lụa, chả quế, v. v…

4. Người Trung Quốc ít có phối hợp nhiều vị trong một món ăn như người Việt. Khi chúng ta ăn một món ăn như nem nướng thì có biết bao nhiêu vị: Lạt lạt của bánh tráng, bún; mát mát ngọt ngọt của dưa leo, và đặc biệt của giá sống trộn với khế chua, chuối chát, ớt cay, đậu phộng cà bùi bùi, và có tương mặn và ngọt. Người Việt trong nghệ thuật nấu ăn rất thích lối đa vị và tất cả các vị ấy bổ sung cho nhau, tạo ra một vị tổng hợp rất phong phú.

Cái ăn chiếm phần khá quan trọng trong đời sống của chúng ta. Khi dậy dỗ một trẻ em thì phải cho nó học ăn, học nói, học gói, học mở để biết ăn, nói với người ta.

Ra đường phải biết “ăn bận” hay “ăn mặc” cho phải cách phải thế. Đối với mọi người không nên “ăn thua” làm chi cho bận lòng.

Làm việc gì phải cẩn thận “ăn cây nào, rào cây nấy”.

Trong việc tiêu tiền phải biết “liệu cơm, gắp mắm” và dẫu cho nghèo đi nữa “khéo ăn thì no, khéo co thì ấm”.

Không nên ham ăn quá độ vì “no mất ngon, giận mất khôn”.

Ra làm ăn phải quyết tâm đừng “cà lơ xích xụi” chạy theo “ăn có” người khác. Phải biết “ăn chịu” với người làm việc nghiêm túc thì công việc khỏi bị “ăn trớt”.

Không nên “ăn gian, ăn lận” hay bỏ lỡ cơ hội thì “ăn năn” cũng muộn.

Trong cuộc sống nên tìm việc làm hữu ích cho gia đình, cho xã hội, cho đất nước đừng để mang tiếng “ăn hại” “ăn bám” người khác.

Khi đàn chơi phải biết lên dây đàn cho “ăn” với giọng ca, hòa đàn cũng phải “ăn” với nhau, “ăn ý”, “ăn rơ” thì mới hay.

Các bạn thấy chăng? Cái “ăn” cũng khá quan trọng nên mới lọt vào một số từ ngữ của tiếng nói Việt Nam. Tuy chúng ta không như người Trung Quốc “dĩ thực vi tiên”, nhưng phải có ăn mới làm nên việc vì “có thực mới vực được đạo.”

Nguồn:

Blog GS Trần Văn Khê

 

Thứ Sáu, 14 tháng 1, 2022

THẾ GIỚI ĐANG THAY ĐỔI


Giáo sư John Vũ 

 

Tôi đã viết về học Khoa học, Công nghệ, Kĩ nghệ và Toán học (STEM) trong nhiều năm. Một số người thậm chí buộc tội tôi khuyến khích học sinh học công nghệ vì tôi là giáo sư trong công nghệ. Tất nhiên, công nghệ là điều tôi biết rõ và tôi có thể viết về nó. Nếu người ta đề nghị tôi viết về nghệ thuật hay âm nhạc, tôi không thể làm được điều đó vì tôi không biết các môn này. Nhiều bố mẹ đã hỏi tôi: “Thầy sẽ khuyên con tôi học Khoa học máy tính hay Công nghệ thông tin chứ? Thầy sẽ khuyên chúng vào đại học nào đó như thầy đã vào chứ?” Câu trả lời của tôi là: “Điều đó phải tuỳ vào con bạn chọn trường nào để vào và học môn học nào chúng quan tâm SAU KHI chúng nghiên cứu về trường mà chúng lập kế hoạch ghi danh và biết môn học nào chúng muốn học.”

 

Tất nhiên, phần lớn các bố mẹ đều muốn con họ vào đại học và có bằng cấp. Tuy nhiên, đại học KHÔNG dành cho mọi người, một số người sẽ học tốt nhưng những người khác có thể không học tốt và có lẽ làm phí thời gian của họ ở đó. Ngày nay, bằng cấp không đảm bảo cái gì nhưng nhiều bố mẹ vẫn muốn con họ vào đại học vì đó là niềm tự hào của gia đình và là một phần của văn hoá đã tồn tại trong nhiều thế kỉ. Với nhiều học sinh, vào đại học có thể là tuỳ chọn tốt nhất vì họ sẽ học nhiều thứ và có thời gian để trở thành người lớn có trách nhiệm khi họ tương tác với những người khác. Tuy nhiên, có các phương án như trường trực tuyến, Các môn học trực tuyến mở cho đại chúng (MOOCs) và các chương trình đào tạo kèm cặp v.v. Các phương án này không được thiết kế cho một lĩnh vực đặc thù hay bằng cấp nhưng giúp người học phát triển những kĩ năng cần thiết để cho họ có thể có được việc làm tốt và bắt đầu làm việc. Phần lớn các môn học trực tuyến (edX, Coursera, Udemy v.v.) đều hội tụ vào kết quả vì chúng ngắn và thực tế. Thay vì học về các lí thuyết, người học học mọi bước về cách làm cái gì đó. Phần lớn các môn học trực tuyến là mở cho bất kì người nào, họ không tính tiền gì cả. Một số môn có thể có giá $20 tới $50 đô la nếu người học muốn có chứng chỉ về hoàn thành. Tuy nhiên, việc học này yêu cầu kỉ luật tự giác và cam kết học vì người học đang học theo cách riêng của họ mà không có bất kì việc giám sát nào và ít được hỗ trợ. Bằng việc đi qua các môn học này, người học sẽ có kết quả ngay lập tức và hiểu điều họ muốn và điều họ có thể không muốn. Thỉnh thoảng, cũng đáng dành vài tháng học các môn này để xem liệu bạn có thể học cái gì đó hay không trước khi quyết định rằng vào đại học có thể là tốt hơn cho bạn? Chọn lựa là của bạn.

 

Ngày nay, người học cần chủ động hơn vì họ học để là độc lập và xác định tương lai của họ với điều họ muốn làm với cuộc sống của họ. Họ phải học về bản thân họ cũng như tình huống thị trường việc làm hiện thời. Họ cần điều tra, thăm dò, khám phá và làm nhiều điều kể cả làm việc bán thời, bắt đầu công ti khởi nghiệp riêng của họ, hay làm việc với những việc tạm thời. Nó sẽ dạy cho họ nhiều điều trong cuộc sống và sẽ giúp họ tìm thấy mối quan tâm riêng của họ về điều họ muốn. Người có giáo dục, tất yếu, không phải là người có tri thức chuyên môn hay bằng cấp mà là người biết bản thân mình và phát triển một tâm trí mạnh mà người đó có thể học bất kì cái gì người đó muốn học. Người có giáo dục thường đọc nhiều sách hữu dụng để giáo dục bản thân mình vì việc đọc có thể ảnh hưởng tới tâm trí người đó và thái độ của người đó trong cuộc sống. Vấn đề là ngày nay, nhiều người không đọc gì thêm mà để các phương tiện khác kiểm soát họ. Xem thụ động video trên YouTube, đọc đa phương tiện như Facebook, Twitter, có thể làm phí nhiều thời gian.

 

Tôi thường khuyên sinh viên của tôi rằng đọc sách có thể giúp họ đi sâu hơn vào một chủ đề. Sau đó, họ nên đánh giá điều họ đọc để phát triển tri thức riêng của họ và quan điểm cá nhân. Tôi thường đọc nhiều bài báo mỗi ngày nhưng muộn trong đêm, tôi bao giờ cũng kiểm lại điều tôi đã đọc. Thỉnh thoảng, tôi đọc lại cùng bài báo hay một đoạn nhiều lần vì tôi muốn hiểu nghĩa của nó sâu hơn và kết nối các tài liệu với điều tôi đã trải nghiệm. Tôi nói với sinh viên của tôi: “Nếu các em muốn học cái gì đó, đọc nhiều hơn về nó đi. Nếu các em muốn học công nghệ, đọc các bài báo công nghệ và nếu các em có thể làm điều đó trong vài tháng, các em sẽ biết nhiều về công nghệ. Việc đọc kích hoạt não của các em và làm giầu cho tri thức của các em. Bằng việc truy nhập mọi tri thức liên quan được lưu giữ trong bộ nhớ của các em, các em hiểu thông tin các em đang đọc. Một phần của điều tôi dạy, tôi yêu cầu sinh viên của tôi đọc ba tới bốn bài báo công nghệ một tuần và tới lớp để thảo luận về chúng. Họ càng đọc nhiều, họ càng học tốt hơn và tri thức này kết nối với trí nhớ của họ khi họ áp dụng chúng trong lớp để giải quyết vấn đề. Đến lúc hoàn thành môn học của tôi, phần lớn sinh viên đều có tri thức và kĩ năng tốt.

 

Như tôi đã nhắc tới trong blog trước rằng sách là thầy dạy tốt nhất trong đời tôi. Tôi bắt đầu đọc khi tôi còn rất trẻ và liên tục đọc cho tới giờ. Tôi mang ơn nhiều tác giả và sách của họ. Nhiều người trong số họ không còn sống nhưng tôi vẫn truy nhập vào tri thức và kinh nghiệm của họ. Ngày nay, với Internet và nhiều cửa hàng trực tuyến, bất kì người nào cũng có thể mở bất kì cuốn sách nào trong vòng vài giây từ bất kì chỗ nào trên thế giới. Cho nên lời khuyên của tôi cho bạn là đầu tư thời gian của bạn vào việc đọc sách mà bạn quan tâm. Khám phá ra đam mê của bạn và điều bạn muốn trong cuộc sống và học từ các sách dạy cho bạn đích xác điều đó. Bạn muốn học về nghệ thuật, đọc sách nghệ thuật. Bạn muốn học về âm nhạc, đọc sách âm nhạc. Bạn muốn học về công nghệ, đọc sách công nghệ. Bạn sẽ thấy sức mạnh của việc tự giáo dục và ảnh hưởng mà sách có thể có trong cuộc sống của bạn.

 

Trong thế giới đang thay đổi nhanh chóng này, có kĩ năng tốt nhất là KHÔNG đủ. Bạn phải có tính dự ứng trong việc học của mình bằng việc liên tục học nếu bạn muốn giữ việc làm của bạn. Giáo dục chính thức kết thúc và bạn có bằng cấp nhưng nó chỉ là bắt đầu. Bạn phải liên tục học khi mọi thứ thay đổi. Phần lớn các thứ sẽ thay đổi nhanh cho nên bạn cần giữ cho mình bắt kịp và bạn sẽ được đánh giá bởi điều bạn biết. Khi ở trong trường, bạn dành vài tuần để học trước kì thi và đỗ nó. Điều quan trọng là có được điểm tốt và bằng cấp. Sau khi tốt nghiệp, bạn sẽ khám phá ra rằng “giáo dục thực” bắt đầu sau giáo dục chính thức của bạn khi bạn học về việc làm, về trách nhiệm, về tương tác với người khác và các kĩ năng mềm khác mà bạn đã không học trong trường. Khi bạn đi làm, khi bạn bắt đầu cuộc sống độc lập riêng của bạn, bạn chịu trách nhiệm cho nghề nghiệp riêng của bạn và hạnh phúc riêng của bạn. Không có điểm số, không bằng cấp, không đánh giá, không đỗ hay trượt nhưng bạn phải tạo ra qui tắc riêng của bạn, việc học riêng của bạn, và cuộc sống riêng của bạn. Bạn sống thế nào, bạn làm việc thế nào, bạn phản ứng thế nào, bạn hỗ trợ gia đình bạn, xã hội của bạn, người của bạn thế nào, và bạn giáo dục bản thân bạn thế nào để đối diện với “Cuộc sống thực” sẽ xác định ra hạnh phúc của bạn.

 

---------------------------------------------------

Giáo sư John Vũ

 

Thứ Sáu, 31 tháng 12, 2021

Cụ Phan Châu Trinh, những câu nói

 


"Những điều ông nói 100 năm trước vẫn còn có giá trị hôm nay".

Ngày 24-3-1926, ông qua đời ở Sài Gòn, an táng ở quận Tân Bình.

Phan Chu Trinh là người Việt Nam đầu tiên (và duy nhất cho đến nay) nhìn thấy trước cảnh “dịch chủ tái nô” (đổi chủ nhưng dân vẫn là nô lệ). Để tránh điều này, Ông đã chỉ ra con đường giành độc lập – tự do cho dân tộc là phải bắt đầu từ “khai dân trí, chấn dân khí, hậu dân sinh”.

Từ năm 1907 Phan Châu Trinh chỉ ra "10 điều bi ai của dân tộc Việt":

1. Trong khi người nước ngoài có chí cao, dám chết vì việc nghĩa, vì lợi dân ích nước; thì người nước mình tham sống sợ chết, chịu kiếp sống nhục nhã đoạ đày.

2. Trong khi người ta dẫu sang hay hèn, nam hay nữ ai cũng lo học lấy một nghề; thì người mình chỉ biết ngồi không ăn bám.

3. Trong khi họ có óc phiêu lưu mạo hiểm, dám đi khắp thế giới mở mang trí óc; thì ta suốt đời chỉ loanh quanh xó bếp, hú hí với vợ con.

4. Trong khi họ có tinh thần đùm bọc, thương yêu giúp đỡ lẫn nhau; thì ta lại chỉ quen thói giành giật, lừa đảo nhau vì chữ lợi.

5. Trong khi họ biết bỏ vốn lớn, giữ vững chữ tín trong kinh doanh làm cho tiền bạc lưu thông, đất nước ngày càng giàu có; thì ta quen thói bất nhân bất tín, cho vay cắt cổ, ăn quỵt vỗ nợ, để tiền bạc đất đai trở thành vô dụng.

6. Trong khi họ biết tiết kiệm tang lễ, cư xử hợp nghĩa với người chết; thì ta lo làm ma chay cho lớn, đến nỗi nhiều gia đình bán hết ruộng hết trâu.

7. Trong khi họ ra sức cải tiến phát minh, máy móc ngày càng tinh xảo; thì ta đầu óc thủ cựu, ếch ngồi đáy giếng, không có gan đua chen thực nghiệp.

8. Trong khi họ giỏi tổ chức công việc, sắp xếp giờ nghỉ giờ làm hợp lý, thì ta chỉ biết chơi bời, rượu chè cờ bạc, bỏ bê công việc.

9. Trong khi họ biết gắng gỏi tự lực tự cường, tin ở bản thân; thì ta chỉ mê tín nơi mồ mả, tướng số, việc gì cũng cầu trời khấn Phật.

10.Trong khi họ làm việc quan cốt ích nước lợi dân, đúng là "đầy tớ" của dân, được dân tín nhiệm; thì ta lo xoay xở chức quan để no ấm gia đình, vênh vang hoang phí, vơ vét áp bức dân chúng, v.v...

Trích: “Tỉnh quốc hồn ca I”

Thứ Bảy, 11 tháng 12, 2021

Top 10 Trạng nguyên nổi tiếng sử Việt

 

1-Trạng nguyên đầu tiên – Nguyễn Quán Quang

Có rất nhiều những ghi chép khác nhau về vị Trạng Nguyên đầu tiên của nước Việt: ví như Lê Văn Thịnh được gọi là Khai khoa Đại Việt khi nhà Lý – Năm Ất Mão – 1075 niên hiệu Thí Ninh thứ 4 đời Vua Lý Nhân Tông – mở khoa thi nho học Tam trường đầu tiên trong lịch sử của nền học vấn Đại Việt.

Tuy nhiên, kì thi đó chưa lấy đậu Trạng Nguyên mà chỉ gọi là Nhất giáp. Vì thế, trong danh sách 47 vị Trạng Nguyên treo ở Văn Miếu Quốc Tử Giám (Hà Nội) đã ghi danh Nguyễn Quán Quang là vị Trạng Nguyên đầu tiên vì ông đỗ đầu khoa thi “Tiến sĩ” năm 1246.

Nguyễn Quán Quang là người xã Tam Sơn, huyện Đông Ngàn, Kinh Bắc, nay là xã Tam Sơn, Thị xã Từ Sơn, tỉnh Bắc Ninh. Sinh ra trong một gia đình nghèo không có tiền theo học nên lúc bé thường lân la ngoài cửa lớp nghe thầy dạy bọn học trò trong làng học sách Tam tự kinh rồi dùng gạch non viết lên nền gạch. Vì thế mà dân gian gọi ông là “Thần đồng” học lỏm.

2- Trạng nguyên trẻ nhất trong lịch sử khoa bảng Việt Nam – Nguyễn Hiền

Năm Đinh Mùi (1247), chính thức thấy sách Đại Việt sử ký toàn thư có chép: “ Ban cho Nguyễn Hiền (12 tuổi) đỗ Trạng Nguyên, Lê Văn Hưu (17 tuổi) đỗ Bảng nhãn, Đặng Ma La (14 tuổi) đỗ Thám hoa” và Trạng nguyên của kỳ thi Tam khôi đầu tiên này là Nguyễn Hiền. Nhưng cũng vì trước đó 1 năm đã có Nguyễn Quán Quang đỗ khoa thi “ Tiến sĩ” nên được coi là vị Trạng nguyên đầu tiên trong lịch sử. Do đó, Nguyễn Hiền là vị Trạng nguyên trẻ nhất trong lịch sử khoa bảng Việt Nam – năm đó ông mới 12 tuổi.

3- Lưỡng quốc Trạng nguyên – Mạc Đĩnh Chi

Mạc Đĩnh Chi – người làng Lũng Động, huyện Chí Linh, tỉnh Hải Dương ngày nay. Nhà nghèo, cha mất sớm, ông sống bằng nghề kiếm củi nuôi thân. Vốn là người có tư chất thông minh, linh lợi, ông sớm nhận ra rằng chỉ có con đường học tập thành tài mới thoát khỏi cảnh nghèo khó đó. Chính vì thế mà ông ra sức học tập. Đến năm Giáp Thìn 1304, ông đỗ Trạng Nguyên.

Nhưng chỉ vì tướng mạo xấu xí mà vua không muốn cho ông đỗ đầu. Ông đã làm bài phú bằng chữ Hán để nói rõ nỗi niềm của người có chí khí “ Ngọc tỉnh liên phú” (Sen trong giếng ngọc). Vua mến phục người tài cho vào bệ kiến giúp vua làm rạng ranh đất nước. Ông giữ chức từ Hàn lâm học sĩ đến chức Thượng thư và sau làm Tể tướng.

4- Trạng Lường – Lương Thế Vinh

Lương Thế Vinh có tên tự là Cảnh Nghị, tên hiệu là Thụy Hiên, sinh ra trong một gia đình nông dân có học ở làng Cao Hương, huyện Thiên Bản, nay là huyện Vụ Bản, tỉnh Nam Định. Từ nhỏ, ông đã nổi tiếng là thần đồng, vốn đã thông minh lại lắm tài. Lớn lên, ông càng học giỏi trong khi vẫn thả diều, đá bóng, câu cá, bẫy chim. Còn các bạn thì ngày đêm dùi mài kinh sử quên ăn quên ngủ. Bởi lẽ, ông có phương pháp học và học đến đâu nhớ được ngay đến đó. Chưa đầy hai mươi tuổi, tài học của ông đã nổi tiếng khắp vùng Sơn Nam. Năm 23 tuổi, ông đỗ Trạng Nguyên khoa Quý Mùi (1463), đời vua Lê Thánh Tông.

5-Nữ Trạng nguyên duy nhất Việt Nam – Nguyễn Thị Duệ

Giả nam đi thi và đỗ Trạng nguyên – Nguyễn Thị Duệ đã là người phụ nữ duy nhất trong lịch sử khoa bảng thời kì phong kiến Việt Nam.

Nguyễn Thị Duệ tên thật là Nguyễn Thị Ngọc Toàn sinh năm 1574 trong một gia đình nhà nho nghèo ở huyện Chí Linh, tỉnh Hải Dương. Từ nhỏ, bà đã nổi tiếng xinh đẹp, tài hoa, giỏi văn chương, ca hát, nhiều người mến mộ tài sắc. Nhưng giáo dục Việt Nam thời đó chưa tạo điều kiện cho phụ nữ đi thi nên Bà đành giả trai để đi thi và đỗ Trạng nguyên đời nhà Mạc.

Vua Mạc Kính Cung cũng bất ngờ khi biết tân khoa Trạng nguyên lại là nữ. Dù rất mến người tài, không trách tội nhưng bà cũng không được mang danh Trạng nguyên để theo đúng phép tắc thời bấy giờ. Nhưng bà lại được vua cho phép ở lại trong triều phụ trách việc dạy học cho các phi tần. Sau, vua Mạc Kính Cung lập bà làm phi, ban hiệu Tinh Phi hay Bà chúa Sao.

6-Trạng nguyên với những lời sấm truyền ứng nghiệm – Nguyễn Bỉnh Khiêm

Nguyễn Bỉnh Khiêm (1491–1585), tên huý là Nguyễn Văn Đạt, tên tự là Hanh Phủ, hiệu là Bạch Vân cư sĩ, được các môn sinh tôn là Tuyết Giang phu tử, là một trong những nhân vật có ảnh hưởng nhất của lịch sử cũng như văn hóa Việt Nam trong thế kỷ 16. Ông được biết đến nhiều vì tư cách đạo đức, tài thơ văn của một nhà giáo có tiếng thời kỳ Nam-Bắc triều (Lê-Mạc phân tranh) cũng như tài tiên tri các tiến triển của lịch sử Việt Nam.

Sau khi đậu Trạng nguyên khoa thi Ất Mùi (1535) và làm quan dưới triều Mạc, ông được phong tước Trình Tuyền Hầu rồi thăng tới Trình Quốc Công mà dân gian quen gọi ông là Trạng Trình. Đạo Cao Đài sau này đã phong thánh cho ông và suy tôn ông là Thanh Sơn Đạo sĩ hay Thanh Sơn chân nhân.

Người đời coi ông là nhà tiên tri số một trong lịch sử Việt Nam đồng thời lưu truyền nhiều câu sấm ký được cho là bắt nguồn từ ông và gọi chung là Sấm Trạng Trình. Nguyễn Bỉnh Khiêm cũng được coi là người đầu tiên trong lịch sử nhắc đến hai chữ Việt Nam một cách có ý thức nhất thông qua các văn tự của ông còn lưu lại đến ngày nay.

7-Người Việt đỗ Trạng Nguyên đất Trung Hoa – Khương Công Phụ

Theo “Đại Việt sử ký toàn thư”, Khương Công Phụ sinh năm 731 và mất năm 805, tự là Đức Văn, người làng Sơn Ổi, xã Cổ Hiển (nay là làng Tường Vân, xã Định Thành, huyện Yên Định, tỉnh Thanh Hóa). Ngay từ khi còn nhỏ, ông đã nổi tiếng thông minh, học hành chẳng bao lâu đã thuộc làu kinh sách.

Dưới thời nhà Đường, mỗi năm đất An Nam được chọn 8 người sang thi tiến sỹ và Khương Công Phụ và Khương Công Phục là 2 trong 8 người được chọn dự thi khoa tiến sỹ ở Trường An vào năm 758.

Tại kỳ thi đình ở Trường An- kinh đô nhà Đường, với tài năng xuất chúng của mình, Khương Công Phụ đã vượt qua nhiều sỹ tử và đỗ đầu kỳ thi ấy.

8-Trạng nguyên- Nguyễn Trực

Nguyễn Trực (1417 – 1473). Năm Thiệu Bình thứ nhất (1434), ở tuổi 17, Nguyễn Trực dự kỳ thi Hương và đỗ đầu (Giải nguyên). Năm Nhâm Tuất niên hiệu Đại Bảo thứ ba (1442), 25 tuổi, dự thi Đình, đỗ Đệ nhất giáp tiến sĩ cập đệ đệ nhất danh (Trạng nguyên). Ông được nhà vua ban sắc “Quốc Tử Giám Thi thư” và thưởng Á Liệt Khanh, đứng đầu trong 33 vị Tiến sĩ cùng khoa.

Sau ông được vua cử làm Chánh sứ sang nhà Minh, gặp kỳ thi Đình, Trạng nguyên Nguyễn Trực cùng với Phó sứ là Trịnh Thiết Trường muốn cho nhà Minh biết đến tài học của dân ta, nên xin dự thi được vua Minh chấp nhận cho phép dự thi, khi vào thi cũng phải chấp hành nội quy trường thi như các thí sinh khác, khi chấm thi xong, khớp phách kết quả: Nguyễn Trực đậu Trạng nguyên, Trịnh Thiết Trường đậu Bảng nhãn, vua nhà Minh phải khen ngợi: “Đất nào cũng có nhân tài” và phong cho Nguyễn Trực là “Lưỡng quốc Trạng nguyên”.

9-Trạng lợn – Nguyễn Nghiêu Tư

Nguyễn Nghiêu Tư đỗ trạng nguyên khoa thi Mậu Thìn niên hiệu Thái Hòa 6 (1448), đời vua Lê Nhân Tông. Bằng tài năng của mình, ông khiến nhà Minh nể phục khi đi sứ. Theo sử liệu và tư liệu của thôn Hiền Lương, huyện Quế Võ, tỉnh Bắc Ninh, trạng nguyên Nguyễn Nghiêu Tư có tên húy là Nguyễn Trư, hiệu là Tùng Khê, người thôn Minh Lương, nay là thôn Hiền Lương, xã Phù Lương, huyện Quế Võ.

Vì sinh năm Hợi và vốn xuất thân trong gia đình có cha làm nghề mổ lợn ở Bắc Ninh, lúc nhỏ đi ở nhờ, làm nghề chăn lợn cho người khác, lại có tên là Trư (lợn) nên dân gian quen gọi ông là Trạng Lợn.

Ngày ấy, ở Trung Quốc hạn hán kéo dài, nhân có Trạng Lợn sang thăm, vua Minh mời Trạng cầu đảo để thử tài. Trạng Lợn nhận lời, yêu cầu dựng đàn uy nghiêm để ông cầu đảo. Mục đích là để kéo dài thời gian. Khi thấy cỏ gà lang, Trạng bèn lên đàn làm lễ, ông khấn theo cách nói lái: Hường binh, hòa binh, tam tinh, kẹo tinh, bát tinh, linh tinh tinh… Vua Minh nghe thấy khiếp đảm, bái phục Trạng Lợn uyên thâm, tỏ tường thiên văn, thuộc hết ngôi thứ các vị tinh tú trên trời. Khóa lễ vừa xong, lập tức mưa như trút nước, khiến vua Minh đã phục lại càng phục hơn.

10-Trạng nguyên cuối cùng – Trịnh Huệ

Theo “Trịnh Vương ngọc phả” thì Trịnh Huệ thuở nhỏ rất thông minh và chịu khó học hành, liếc mắt qua một lượt thuộc ngay mười hàng chữ, chục năm sau có thể đọc lại vanh vách. Năm 1723 Trịnh Huệ thi Hương và đỗ ngay Hương cống (tức đỗ đầu), được chúa Trịnh Giang mời vào cung Tân Nhân giao cho chức phó Tri Hình Phiên. Tại khoa thi năm Bính Thìn (1736), ông đỗ đầu kỳ thi Hội, vào đến thi Đình ông cũng lại đỗ đầu, trở thành Trạng nguyên.

“Hiền tài là nguyên khí quốc gia” – điều này đã được minh chứng như một định đề bất biến trong lịch sử Việt Nam. Dân gian vẫn hay quan niệm rằng còn người là còn tất cả. Vì lẽ vậy thiết nghĩ từ góc độ gia đình xã hội hay quốc gia nên lấy việc dạy người làm trọng. Có vậy đời sống mới dài lâu, tiếng tăm mới lưu danh thiên cổ. Tất nhiên trong giáo dục đạo đức vẫn luôn luôn đứng đầu.

Vũ Nam tổng hợp.

 

Trị viêm đại tràng

Ai có bệnh nên dùng, bài này cũng là kinh nghiệm của già làng, nay thấy bạn này chia sẻ TL đưa luôn! *** “Người Trung Quốc nói người việt na...