Tổng số lượt xem trang

Hiển thị các bài đăng có nhãn Phật Giáo. Hiển thị tất cả bài đăng
Hiển thị các bài đăng có nhãn Phật Giáo. Hiển thị tất cả bài đăng

Thứ Năm, 7 tháng 11, 2024

Lời tiên tri từ một cuốn truyện tranh

 


Thứ Bảy, 25 tháng 5, 2024

Các cảnh giới Thiền :


1) Sơ Thiền ( Ly Sanh Hỉ Lạc)
- Nghĩa là xa rời mọi sự vui sướng của đời sống thế gian, đạt được thì có niềm vui tự thân toát ra không bị phụ thuộc vào hoàn cảnh bên ngoài (Minh Tuệ đã chứng được).
2) Nhị Thiền (Định Sanh Hỷ Lạc)
- Nghĩa là khi ngồi Thiền thì niềm vui an lạc tự sinh ra, ăn rất ít, thậm chí không cần ăn uống tới 21 ngày mà cũng không sao cả.
Ngồi Thiền chính là thức ăn rồi đấy vậy. (Minh Tuệ đang ở vách ngăn Chứng Nhị phá Tam).
3) Tam Thiền (Ly Hỉ Diệu Lạc)
- Nghĩa là đến cả niềm vui do ngồi thiền cũng không có nữa, có thể chủ động ngừng thở, ngừng tim, ngừng mạch máu, thậm chí chủ động xả bỏ thân mình, bất cứ lúc nào, một cách chủ động.
4) Tứ Thiền (Xả Niệm Thanh Tịnh)
- Nghĩa là bỏ hết cả ý niệm Thanh Tịnh khi ngồi Thiền, thực sự Thanh Tịnh đồng chân như pháp tính.
Nguồn: Sưu tầm

Thứ Sáu, 17 tháng 5, 2024

SƯ MINH TUỆ VÀ PHÁP HÀNH DƯỚI GÓC NHÌN PHẬT GIÁO.




Vài năm trước, tôi có duyên được biết đến sư Minh Tuệ qua kênh Youtube Nhân Gà Vlogs. Hình ảnh sư được quay tại một hang đá ở núi Sạn (Nha Trang) - nơi cũng gần nhà tôi. Qua video, sư không thuyết pháp, cũng không tự nói về bản thân, mà chỉ trả lời, chia sẻ khi được hỏi, một cách rất chân thật về hành trình tu tập của mình. Điều mà tôi quan tâm, chú ý hơn cả là những chia sẻ về việc thực hành, trì giới của sư. Và tôi nhận ra sư Minh Tuệ đọc nhiều, hiểu rõ về kinh Nikaya và hành y theo những lời Đức Phật dạy. Từ đó có nhận định rằng đây là một bậc chân tu.
Đến hôm nay, sư Minh Tuệ được rất nhiều người biết tới (tôi không thích dùng từ “nổi tiếng” đối với một bậc tu hành) và có sức lan toả rộng khắp, vượt ra cả biên giới quốc gia. Và câu chuyện về sư Minh Tuệ trở nên nóng hơn bao giờ hết, khắp mạng xã hội tràn ngập những video và hình ảnh về ông. Theo đó là rất nhiều ý kiến, quan điểm khác nhau. Kính phục, ngưỡng mộ… có; chê bai, miệt thị … có. Muôn nẻo trần ai!
Nhưng may thay! Những người nghĩ tiêu cực về ông vẫn là thiểu số.
Sư Minh Tuệ tu theo pháp khổ hạnh đầu đà. Một số nhìn vào hành trạng và y áo của ông mà phỉ báng, nào là điên khùng, nào là hành xác, thiếu trí tuệ, không theo con đường Trung đạo mà Đức Phật khuyến khích. Nhưng những kẻ phỉ báng ông đâu biết rằng sư Minh Tuệ đang thực hành theo đúng chánh pháp, ông làm theo những lời dạy trong kinh nguyên thuỷ (1), đó là từ bỏ gia đình, sống đời phạm hạnh - một lối sống trong sạch, thanh tịnh, minh triết, buông xả tất cả, thiểu dục tri túc. Người ta nhầm lẫn khổ hạnh đầu đà là cách tu khổ hạnh trong 6 năm đầu của Đức Phật đi cầu đạo. Cái khổ hạnh ấy là ép xác, hành xác khiến cơ thể phải chịu nhiều đau đớn (có nguồn gốc từ Bà-la-môn). Như vậy, khổ hạnh đầu đà nghĩa nào đó là tiền thân của con đường Trung đạo và vẫn gần với nó nhất.
Nhiều người lại cho rằng tu hành quan trọng ở trí tuệ chứ không phải làm khổ cái thân. Nhưng họ nhầm lẫn giữa trí tuệ thế gian với trí tuệ Phật (2). Trí tuệ thế gian là khả năng nhận thức của con người, có từ di truyền và học hành. Trong khi trí tuệ Phật chỉ được khai mở khi người tu phải biết nghiêm trì giới luật. Có giới mới có định, có định mới sinh tuệ. Cho nên Đức Phật nói ở đâu có giới hạnh ở đó có trí tuệ và ngược lại (3).
Thực hành hạnh đầu đà cốt lõi là để chấm dứt mọi phiền não trần cấu. Vì ở pháp hành này giúp hành giả có thể hộ trì các căn, không bị chi phối bởi hoàn cảnh, dần đoạn diệt tham sân si. Đó là lí do vì sao người tu chỉ ăn ngày 1 bữa (giảm cái tham ăn), ngủ ngồi (giảm cái tham ngủ, vì nằm sẽ dễ ngủ say, li bì); mặc 3 y (thực chất là 1 bộ - nhu cầu tối thiểu, giảm sự lệ thuộc, tham ái vào y phục)…
Một số người lại chỉ trích, hạnh đầu đà sao không sống độc cư ở trong rừng mà cứ đi lang thang khắp cả nước làm gì. Thưa rằng, thời nay tìm rừng ở Việt Nam như thời Đức Phật tại thế là không thể. Và sư cũng từng có thời gian ẩn tu trên núi Sạn. Vậy tại sao ông quyết định chọn lựa cách bộ hành đi khắp đất nước? Như ông trả lời, đó là đi “tập học và rèn luyện sức khỏe”. Thực ra, nếu hiểu sâu thì ông đang thực hành đúng chánh pháp Như Lai. Vì đi như vậy là cách để ông chánh niệm thân - thọ - tâm - pháp; vì phải sống trong khổ, biết khổ, chứng nghiệm khổ thì mới hiểu rõ nguyên nhân của khổ, khi đó khổ sẽ tự chấm dứt, chứ không phải mong thoát khổ để được lạc.
Trên bước đường của sư, nếu ông bị cám dỗ bởi vật chất, tiền bạc, sắc đẹp, tức cái tham dục đã khởi lên; hay ông cảm thấy bị phiền toái khi nhiều người vây quanh, quấy nhiễu, tức cái sân đã nổi lên… Do đó, nếu chỉ ẩn tu chưa chắc sẽ chế ngự được tâm khi đứng trước những xúc chạm của thế tục.
Lại nhiều kẻ phê phán rằng: Ông đi như thế có ích lợi gì cho xã hội? Cả xã hội ai cũng đi như ông thì lấy gì có ăn?
Đây là những câu hỏi thiển cận và có tính chất ngụy biện hoặc đề cao quá về bản thân mình.
Thế, hãy tự hỏi mỗi người chúng ta đã làm gì cho xã hội?
Ai cũng có phần đóng góp cho xã hội không nhiều thì ít, và những giá trị con người có thể tạo ra không chỉ được định lượng bằng vật chất, mà còn ở tinh thần.
Lẽ thường, cái mà ta đã làm được, dễ nhìn thấy, là cho bản thân và gia đình. Nhưng cái mà sư Minh Tuệ đã và đang làm cho xã hội lớn lao và rõ nét hơn ta nhiều, đó là:
Sư đã giúp nhiều người thấy được hình ảnh của Phật giáo nguyên thuỷ và bóng dáng tu hành - cuộc đời Đức Phật.
Sư như một tấm gương chiếu yêu có thể làm lộ ra chân tướng của một số “xàm tăng”, “chuyển khoản tăng”, “hiến kế tăng”…
Sư đã khiến nhiều người đang mê lạc tà đạo thức tỉnh trở về với ánh sáng của chánh pháp.
Sư đã khiến nhiều người vẫn giữ được niềm tin vào Phật giáo, và ngay cả những tín đồ tôn giáo khác cũng có cái nhìn thiện cảm và mến mộ đạo Phật.
Sư đã khiến nhiều người tự soi xét lại mình mà giảm bớt tham sân si trong cuộc sống. Thậm chí không ít người còn buông bỏ tất cả mà xuất gia theo bươc chân sư.
Và nghĩa nào đó sư đã khiến cho tình người gần gũi hơn, xã hội hoà ái hơn.
Vậy, nếu cả xã hội mà cứ làm được như sư thì tốt biết bao. Khi đó, tôi tin chắc, xã hội không chỉ có ăn, có mặc mà còn có một đời sống an lạc, hạnh phúc hơn rất nhiều. Nhưng tiếc thay, làm như sư sẽ không được mấy người đâu!
Lại có người thắc mắc rằng sao thầy tu mà xưng “con”, không xưng “thầy” với người khác?
Thứ nhất, ông đã chọn con đường buông xả, không còn ràng buộc việc tu tập ở chùa cũ, cũng như không nhận mình “là sư là thầy ai cả” cốt để khỏi ảnh hưởng đến bất cứ ai và không bị phiền hà về chuyện giấy tờ tu sĩ…
Thứ hai, việc tự xưng “thầy” của các nhà sư với phật tử ngày nay chỉ là thói quen trong giao tiếp. Không có sự ràng buộc nào. Suy cho cùng đó là văn hoá ứng xử tôn ti và qui ước xưng hô trong ngôn ngữ của người Việt, chứ nếu ở tiếng Anh thì cũng chỉ lả I - You, hay tiếng Trung là Wǒ 我 - Nǐ 你mà thôi. Ở một số cao tăng họ vẫn xưng bằng “tôi” hoặc pháp danh khi giảng pháp. Còn sư Minh Tuệ xưng “con” với tất cả đại chúng, hiểu sâu hơn, đó là ông đang thực hành phá chấp ngã, tức ông không quan niệm mình là “thầy”, bỏ qua cái tôi mà khiêm hạ với mọi người. Rõ ràng đây chính là tinh thần vô ngã.
Hiện tại trên bước đường tu, sư đến đâu dân chúng cũng kéo theo hàng trăm đến hàng ngàn người, và trong đó có không ít youtuber, titoker, facebooker… Điều đó khiến nhiều người lo lắng, vì vấn đề an ninh hay sự phiền nhiễu cho việc tu tập của sư.
Theo tôi, chúng ta chớ vội mà trách cứ, chửi bới những người làm các kênh mạng xã hội. Hãy nhìn vào mặt tích cực của họ, vì nếu không có họ thì làm sao tạo ra những hiệu ứng tốt đẹp lan tỏa về một bậc chân tu. Và với thời đại này, cũng cần nhìn nhận rằng việc hoằng dương chánh pháp, phổ độ chúng sinh, chia sẻ những điều tốt đẹp sẽ rất hữu hiệu khi có sự hỗ trợ của truyền thông, và mạng xã hội. Nếu không thì làm sao phật tử ở Việt Nam biết đến những bài giảng của sư Pháp Hòa, hay Tịnh Không và của những bậc cao tăng khác nữa.
Mặt khác, sự tụ tập của họ cũng là một phép thử để sư Minh Tuệ thực hành chế ngự tâm. Khi được nhiều người chú ý, sùng bái, vái lạy, nếu sư khởi lên cái tâm - mình là quan trọng, là trung tâm, là ngôi sao, thì ngay lập tức sư rơi vào ngã chấp, ngã mạn (tâm tham ái, cầu danh); nếu họ vây quanh khiến sư không có thời gian nghỉ ngơi sinh hoạt mà khó chịu, nổi giận, tức tâm sân đã sinh khởi. Cho nên những tình huống này là một phép thử cực đại trên bước đường trì giới và chánh niệm. Theo quan sát, dù đi bộ cực khổ đến đâu nhưng lúc nào trên mặt sư cũng an nhiên và luôn nở nụ cười. Có lẽ, sư đã đạt đến trạng thái tịch tịnh.
Hay nhiều người dân tỏ lòng thương xót cho sư, sì sụp khóc lóc, vì chứng kiến cảnh sư đầu trần chân đất dãi nắng dầm mưa… Sự rung cảm này có thể hiểu được nhưng đó là chúng ta lấy suy nghĩ và đôi mắt của người thế tục. Lựa chọn con đường khổ hạnh ấy khiến sư cảm thấy được lạc thọ nội tâm, và những trở ngại đó mới giúp sư đến gần với giác ngộ.
Lại có người lo cho sư vì những tai hoạ có thể ập đến bởi những thế lực đen tối. Xin cũng đừng lo, khi đã chọn con đường này thì phải là một bậc đại dũng. Chả phải sư từng nói “còn cho con sống thì con tu tiếp” đó sao? Đây là tinh thần vô uý khi sư đã thấu triệt vô thường, vô ngã. Điểu mà ta nên quan tâm là liệu sư có thực sự đã đạt được tâm thái đó hay chưa. Nếu đã đạt thì niết bàn cũng không còn xa nữa. Vậy tất cả nên hoan hỉ.
Tôi đoán, tất nhiên đến một giai đoạn nào đó, có thể là sau khi chứng nghiệm khổ, rèn được thân tâm, sư Minh Tuệ sẽ ẩn tu. Vì để đạt giác ngộ, khi giới hạnh đã đầy đủ, cần phải thiền để nhập định.
Chắc chắn những ảnh hưởng của sư đã khiến cho tiền rơi vào túi một số xàm tăng ít lại, và cứ đà này có khi họ phải bán ô tô, bán đất bớt mà tiêu. Cho nên không lạ gì việc chống phá, hãm hại sư Minh Tuệ đang vào guồng rất mạnh. Họ ban đầu bịa ra chuyện giả tu, và có cả một ê-kíp quay phim dàn dựng. Họ bôi bác tăng y, gọi áo “phân lô bán nền”, hay họ chê cái nồi cơm điện là bình bát không chính thống. Nhưng họ làm sao hiểu được sư đã đạt đến cái tâm phá chấp, sư đâu còn sợ mắc cỡ, hay bị quê với mọi người, và sư cũng có dùng điện thoại hay biết mạng xã hội nói gì đâu. Khi đã chọn đời sống phạm hạnh, sống xả ly, không gia đình, ngủ nghĩa địa thì trở ngại lớn nhất là gia đình, người thân mà sư còn vượt qua thì có sá gì.
Hèn nhất là họ đã chụp mũ cho sư, gắn nhãn tổ chức nước ngoài phản động, dựng lên một ông sư ăn mày để chống phá Phật giáo Việt Nam và phá hoại đất nước.
Xin thưa rằng Phật giáo Việt Nam bị phá hoại bởi những xàm tăng, ma tăng đang được hậu hậu thuẫn và dung túng. Chính họ đã lợi dụng thuyết nhân quả, luân hồi để xuyên tạc, bịa đặt, và hù doạ cho những người u mê sợ hãi bằng những viễn cảnh ghê rợn ở kiếp sau. Từ đó tiếp tục lợi dụng cúng dường như một phương cách để giải nghiệp báo, cầu phước báu, tăng trưởng công đức… Tiền càng nhiều càng tốt, và “người mà có tâm đạo cúng luôn cả nhà cho chùa… dọn đi chỗ khác ở, cứ ở cái chòi nào đó, ở bình thường thôi”. Tóm lại là cúng dường… cúng dường…
Do đó khi nào các “ma tử ma tôn”* đang trà trộn vào chùa, khoác áo nhà sư mà bị thanh lọc là lúc Phật giáo Việt Nam được chấn hưng.
Tất nhiên, khi tán thán về pháp hành của sư Minh Tuệ thì không đồng nghĩa với việc hạ thấp các pháp tu khác ở những bậc chân tu trên đất nước này. Mỗi người một căn cơ, một hạnh nguyện khác nhau nên không thể ai ai cũng phải giống nhau. Mỗi cá nhân có mặt ở thế gian này là để hoàn thành một “sứ mệnh” của riêng mình.
Nếu tiêu chuẩn của một người tu là giới hạnh thì rõ ràng người hành pháp sẽ cao hơn người hiểu pháp. Và thực hành được hạnh đầu đà là một công hạnh lớn, xưa nay không được mấy ai. Vậy, tán thán, kính ngưỡng giới hạnh là việc nên làm nhưng không nên sùng bái, suy tôn, thánh hoá sư Minh Tuệ ngay lúc này, vì điều đó sẽ khiến rơi vào tà kiến, ngoại đạo, đi ngược lại với tinh thần Phật giáo.
Để thấy rõ được ý nghĩa của việc tu hạnh đầu đà, xin dẫn lại lời Đức Phật khi tán thán hạnh tu của ngài Ca-diếp:
“Lành thay! Lành thay, Ca-diếp! Thầy có nhiều lợi ích, độ người vô lượng, rộng đến tất cả Trời, Người đều được độ. Vì sao? Ca-diếp! Nếu hạnh đầu đà này được ở đời thì pháp của Ta cũng sẽ được lâu dài ở đời. Nếu có pháp ở đời, thì thiên đạo tăng thêm, ba đường ác liền giảm. Cũng vậy, thánh Tu-đà-hoàn, Tu-đà-hàm, A-na-hàm, đạo Tam thừa đều còn ở đời. Này các Tỳ-kheo, hãy học như Ca-diếp tu tập.
Như vậy, các Tỳ-kheo, nên học điều này.” (4)
_____________
Chú thích:
(1) Trong Kinh Sa-môn quả, Kinh Chủng đức
(2) Còn gọi là trí tuệ Bát nhã
(3) Trong Kinh Chủng đức
(4) Trong Kinh Tăng nhất A-hàm, (tập I)
___________
Giảng viên Nguyễn Thanh Huy

Thứ Sáu, 26 tháng 4, 2024

"THIỆN, ÁC " CÓ CỐ ĐỊNH ĐƯỢC KHÔNG





Thường thường chúng ta hay nói làm việc này là thiện, làm việc kia là ác.
Nhưng, tỉ dụ vào một buổi chiều ngồi trên Thiền thất, tôi thấy một con kỳ nhông đang bò trên thân cây tràm. Bỗng từ xa bay nhanh lại một con chim bìm bịp chực chụp mổ kỳ nhông, chú kỳ nhông hoảng sợ chạy loanh quanh thân cây, bìm bịp cũng bay loanh quanh đuổi theo.
Đứng trước cảnh đó, tôi phải làm sao?
Tôi ra đuổi con bìm bịp để cứu con kỳ nhông, việc làm đó là thiện hay ác?
Thấy qua dường như là thiện, cứu được sanh mạng con vật bé nhỏ, đuổi được con vật lớn hiếp đáp, đó là việc thiện chớ gì?
Nhưng xét kỹ lại, quí vị thấy việc thiện đó đã thật là thiện hay chưa?
Đứng về bên con kỳ nhông đây là việc thiện, nhưng đứng về bên con bìm bịp thì thế nào? Buổi chiều đang đói, chim bìm bịp đi kiếm ăn, gặp được miếng mồi, sắp mổ ăn, mà bị người ngăn lại, làm sao khỏi sanh tức giận.
Khiến kẻ khác tức giận đó là việc ác chớ gì?
Như vậy việc đuổi chim bìm bịp chỉ thiện đối với con kỳ nhông mà ác đối với chim bìm bịp, thiện ác có cố định không?
Xét xa hơn nữa, chẳng những ác với chim bìm bịp mà còn ác với con mồi khác nữa, vì chim bìm bịp đâu chịu nhịn đói, tức nhiên phải kiếm một con mồi khác để ăn.
Và con mồi này là nạn nhân của tôi vì nó đã thế mạng con kỳ nhông, nếu nó biết việc này tức nhiên nó sẽ oán thù tôi luôn!
Qua câu chuyện trên, chúng ta thấy phải định thiện ác như thế nào?
Thiện ác có cố định chăng?
Một việc làm mới nhìn dường như là thiện, nhưng nhìn qua một khía cạnh khác lại là ác, chính đó là trong đối đãi không cố định, nghĩ làm việc thiện mà việc ác đã ở bên cạnh rồi.
Thiện ác không cố định mà chấp là cố định, là chúng ta đã sai lầm.
Tuy nhiên trong đối đãi, làm việc gì lợi mình lợi người là thiện, hoặc hại mình mà lợi nhiều người là thiện, còn làm việc gì lợi mình hại người là ác.
Nói lại tỉ dụ ly nước khi nãy, nó có cố định là nhơ hay sạch chăng?
Một ly nước đang trong sạch, bỏ đất vào thành nhơ mất, đâu có cố định.
Ly nước thành nhơ ấy, để lóng lại, lọc qua ly khác thì trở thành trong sạch.
Ly nước luôn luôn đổi thay tùy duyên không cố định, nếu chấp vào một cái gì cố định là chúng ta sai lầm.
Đến tỉ dụ sự dài ngắn, một cây dài một thước để gần cây năm tấc, thì cây một thước là dài, cây năm tấc là ngắn.
Khi cây một thước để gần cây hai thước thì cây một thước là ngắn, cây hai thước là dài.
Như vậy chúng ta thấy tùy duyên mà cây một thước biến thành dài ngắn trong đối đãi, chớ không cố định.
Sự tốt xấu của sự vật cũng như vậy.
Một món vật trung bình để gần một vật tốt thì trở thành xấu, nếu để gần một vật xấu hơn thì trở thành tốt.
Cái tốt biến thành xấu hay cái xấu biến thành tốt là tùy duyên thay đổi, không có cái xấu tốt cố định, nếu chấp vào sự vật cố định tức là sai lầm.
Cũng như vậy, tất cả các pháp thế gian đều là đối đãi không cố định, nếu thấy các pháp không cố định là thấy đúng như thật, nếu thấy các pháp cố định là thấy sai lầm, tức là khổ vậy.
Học kinh Bát-nhã là phá chấp, nếu biết tất cả là không cố định thì còn chấp vào cái gì?
Cho nên nói không phải tất cả, không có nghĩa là không có, mà ngay nơi đó thành tất cả.
Bởi vì cái không cố định này không phải là cái gì hết, không phải tất cả mà tùy duyên thành lập tất cả.
Tinh thần Bát-nhã chỉ cho chúng ta thấy rõ tất cả các pháp đối đãi ở thế gian này là không có thật.
Không thật là tướng tùy duyên không cố định, không cố định nên luôn luôn thay đổi theo duyên, theo duyên thay đổi nên không ở mãi một vị trí, không ở mãi một hình thức, không ở mãi một hoàn cảnh nào, luôn luôn tùy thời chuyển biến đổi thay.
Như vậy cái chuyển biến đổi thay tùy thời tùy duyên gọi là không cố định.
Nhìn thấy rõ như vậy là thấy đúng như thật, gọi là thấy bằng trí tuệ Bát-nhã.
Nếu thấy một bên là thấy bằng thiên chấp, tức là thấy lầm.
Nếu thấy bằng thiên chấp là cái thấy của vô minh, không bao giờ thấy đạo.
Nếu thấy đúng như thật là thấy bằng trí tuệ, là thấy đạo.
Hòa Thượng , Thiền Sư Thích Thanh Từ.
Trích trong : Bát-Nhã Tâm Kinh Giảng giải.

Thứ Năm, 25 tháng 4, 2024

Bố thí máu

 



Trong kinh Hiền Ngu, có kể chuyện tiền thân của Phật là thái tử Ma Ha Tát Đỏa đi vào rừng thấy một con hổ mẹ và hai hổ con đang chết đói, thái tử động lòng thương nên hy sinh thân mạng, tự lấy cây nhọn đâm vào cổ họng cho máu phọt ra để mấy mẹ con hổ liếm và sau đó ăn thịt ngài.

Đạo Phật là đạo từ bi và trí huệ, và trong hai cái này thì từ bi cần trước. Tu hành mà chỉ lo trau dồi kiến thức, bỏ xót lòng từ bi thì không đúng tôn chỉ đạo Phật. Vì nhờ có lòng từ bi thương chúng sinh trôi lăn  trong sinh tử với khổ sinh, già, bệnh, chết, mà thái tử Siddharta mới xuất gia tu hành và giác ngộ thành Phật. Động cơ xuất gia của ngài là lòng đại bi và thành tựu của ngài là trí tuệ (giác ngộ).

Một hành giả đại thừa phát tâm theo Bồ tát đạo cần phải tu tập sáu ba la mật là bố thí, trì giới, nhẫn nhục, tinh tấn, thiền định, trí huệ. Trong sáu ba la mật, ta có thể gom lại thành ba nhóm: làm lành, lánh dữ, và  thanh lọc tâm ý.

Bố thí = làm lành

Trì giới, nhẫn nhục = lánh dữ

Thiền định, trí huệ = thanh lọc tâm ý

Tinh tấn áp dụng cho cả ba phần trên.

Trong các việc lành, bố thí đứng hàng đầu, động cơ của sự bố thí là lòng từ bi, muốn chia xẻ và cứu giúp người khác. Chính đức Phật đã trải qua vô lượng kiếp thực hành bố thí đầu, mắt, tay, chân, vợ con, nhà cửa, thành quách, v.v...

Bố thí có hai loại: ngoại thí và nội thí. Ngoại thí là bố thí những đồ vật mình có bên ngoài  như tiền bạc, nhà cửa, đồ ăn, thức uống, v.v... để cứu kẻ khác qua cơn nghèo đói. Nội thí là bố thí những thứ bên trong thân thể của mình như đầu, mắt, tay, chân, thận, gan, v.v... để cứu sống mạng người. Giữa hai sự bố thí thì nội thí khó làm hơn ngoại thí, vì người ta có thể cho tiền bạc, của cải nhưng không ai dám cho đầu, mắt, tay, chân, nội tạng. Chúng ta vẫn thường nghe nói trong kinh đức Phật đã từng bố thí như vậy trong nhiều kiếp, chẳng lẽ chúng ta không bao giờ thực hiện được nội thí hay sao? Có hai cách nội thí mà chúng ta có thể làm được là:

Hiến máu

Làm giấy hiến các bộ phận trong cơ thể sau khi mình chết.

1/ Bố thí máu

Danh từ ngoài đời gọi là hiến máu hay cho máu. Đây là cách nội thí dễ làm nhất, không tốn đồng xu nào

mà công đức vô lượng vì nó cứu sống mạng người, và người cho máu cũng không sụt mất ký lô nào, chỉ sau vài giờ là lượng máu trong người được tái thiết trở lại. Ngoài ra ở Âu Mỹ, người cho máu còn được cơ sở y tế báo cáo tự động, miễn phí về sự thử nghiệm máu.  Có nhiều người thích làm việc phóng sinh như thả  tôm, cá, chim, giun, dế, v.v... Đây là một việc rất tốt, cứu mạng nhiều chúng sinh nhỏ bé sắp bị giết.

Nhưng không bằng so với công đức của sự bố thí máu, bởi vì phóng sinh thuộc về ngoại thí, trong khi cho máu thuộc về nội thí. Cứu mạng 1000 con cá không bằng cứu mạng một người, vì con người là loài  tiến hóa và có khả năng tu hành giải thoát nhiều hơn các loài thú khác. Trong Kinh 42 chương, đức Phật dạy "Đãi 100 người ác ăn không bằng đãi một người thiện ăn. Đãi 1000 người thiện ăn, không bằng đãi một người trì ngũ giới ăn. Đãi 10.000 người trì ngũ giới ăn, không bằng cúng dường cho một vị Tu đà hoàn ăn...". Đoạn kinh này cho ta thấy công đức của sự bố thí nhiều hay ít tùy thuộc vào đối tượng. Nếu đối tượng bố thí là người đạo đức, tu hành, có trình độ tiến hóa cao thì công đức bố thí càng tăng trưởng. Như vậy thì cứu sống 1000 tôm cá không bằng cứu sống một mạng người.

Hàng ngày trên thế giới luôn xảy ra tai nạn, và trong nhà thương có rất nhiều trường hợp cần phải mổ như nghẹt tim, ung thư, xơ gan, tai biến mạch máu, v.v... Khi mổ thì chắc chắn mất nhiều máu, có bác sĩ giỏi mà không có máu tiếp cho bệnh nhân thì họ cũng chết. Do đó hiến máu là cách cứu sống mạng người hay nhất và dễ làm nhất. Nếu muốn cho máu thì bạn nên liên lạc các nhà thương là nơi lúc nào cũng cần máu. Ngoài ra ai dám bảo đảm là trong suốt cuộc đời chúng ta (hoặc người thân của ta) sẽ không bao giờ phải vào nhà thương và nằm trên bàn mổ. Khi lâm vào hoàn cảnh như vậy thì ta mới thấy mình rất cần máu của những người khác hiến tặng. Nếu mình biết thọ nhận của người thì tại sao lại không biết bố thí cho người?

2/ Bố thí bộ phận sau khi chết

Bên trong thân thể con người có những bộ phận như tim, gan, phổi, thận, lá lách, ruột, đởm, bao tử, bàng quang, v.v... chúng hoạt động một cách đều đặn, nhịp nhàng để duy trì sức khỏe và sự sống. Nhưng ngày nào chúng hư hoại thì chúng ta mang bệnh và mạng sống bị đe dọa. Thời xưa thuật giải phẫu chưa tiến bộ như ngày nay nên những ai bị hư tim, gan, phổi, v.v... thì đành chịu chết, nhưng ngày nay khoa học có thể mổ và thay thế chúng, nhưng với điều kiện là phải có bộ phận tốt để thay vào. Khi vợ chồng hay con cái của ta bị hư thận, một tuần phải đi lọc máu ba lần và đang chờ đợi một trái thận thì chắc chắn chúng ta sẽ cầu nguyện ngày đêm để mong sớm có được một trái thận của ai đó mới chết. Trong lúc còn đang sống chúng ta không thể tự móc mắt cho kẻ mù, nhưng khi chết thì cặp mắt của ta có thể giúp cho người mù tìm lại ánh sáng. Khi sống chúng ta không thể tự rạch bụng moi tim cho kẻ khác, nhưng sau khi chết, tim của ta có thể cứu sống người khác. Khi sống ai nấy đều phải duy trì bảo vệ lục phủ, ngũ tạng của mình để sống không bệnh tật. Nhưng sau khi chết thì thân thể của ta chỉ là cái xác không hồn, sau vài giờ là nó lạnh cứng, các tế bào, bộ phận sẽ tan hoại và sình thối. Như vậy có gì đáng bám víu luyến tiếc? Trong khi đó nếu biết bố thí bộ  phận thì sau khi chết, chúng ta vẫn làm phước, cứu sống được bao nhiêu người khác. Người có tâm nguyện bồ tát, muốn ban vui cứu khổ thì nên làm giấy hiến bộ phận để cứu sống kẻ khác. Luật hiến bộ phận có thể khác nhau tùy theo quốc gia, thí dụ như ở Pháp thì phải xin một thẻ riêng (carte de donneur d'organes), còn ở Mỹ thì khi lấy bằng lái xe, nếu đồng ý cho bộ phận thì sẽ được ghi ngay trên bằng lái. Những người còn bám víu, cưng chiều cái thân của mình quá nhiều thì không nên làm giấy hiến bộ phận, vì thân thể là cái mà con người bám víu nặng nhất và cho đó là Ta, là mình. Những người này sau khi chết,  nếu thấy ai mổ xẻ lấy bộ phận của mình thì sẽ tức giận, oán hận và khó siêu thoát. Đây cũng là lý do tại sao không nên sờ mó, đụng đậy thân xác người chết trong vòng tám tiếng (để thần thức có thì giờ ra khỏi xác và ý thức được mình đã chết). Nhưng đối với người có tâm nguyện bồ tát, xem thân thể như chiếc áo, chiếc bè, hoặc chiếc xe, dùng tạm trên cõi đời để giúp người thì không cần phải chờ tám tiếng, vì càng chờ lâu thì các bộ phận sẽ hư, không cứu giúp được ai. Bồ tát thấy thân thể, bộ phận của mình cứu giúp được người khác thì tâm càng hoan hỷ. Làm giấy hiến bộ phận không có nghĩa là các bộ phận của ta sẽ được lấy dùng vì các lý do đã nói trên, nó chỉ là một tâm nguyện từ bi, muốn giúp ích cho người khác. Nếu bạn thấy đúng thì làm và khuyến khích người quen làm theo, nhưng không nên quá khích, ép buộc mọi người phải làm giống mình. Một việc tốt mà cứ quảng cáo, ép buộc người khác thì họ sẽ bực mình và đâm ra ghét việc tốt đó. Vô tình  muốn làm tốt mà trở thành xấu. Ngoài ra bạn cũng nên báo cho gia đình biết ý nguyện hiến bộ phận của mình, để khi lâm sự thì họ không phản đối hoặc ngăn cản phiền phức. Hiến bộ phận không có nghĩa là cho luôn thân xác, sau khi lấy được bộ phận nào đó, xác chết sẽ được trả lại cho người nhà để làm lễ mai táng. Tóm lại trong hai cách nội thí trên thì cho máu là cách tốt nhất, dễ làm và quả báo đương nhiên của sự cứu mạng là trường thọ và khỏe mạnh.

Trí Siêu Lê Mạnh Thát

 

Thứ Bảy, 6 tháng 4, 2024

Phật nghĩa là gì?




Danh từ “Phật” xuất phát từ chữ phạn बुद्धा, đọc là Buddhā, dịch nghĩa là “Giác ngộ”.
Ban đầu người Việt tiếp thu Phật giáo trực tiếp từ Ấn Độ theo ngả nam truyền khi các nhà sư Ấn Độ đi theo các nhà buôn bằng đường biển tới vịnh Bắc Việt, mang đạo vào kinh đô Luy Lâu của nước Việt lúc bấy giờ. Nghe họ phát âm là “Buddha”, được ông cha phiên âm trực tiếp là “Bụt” (đọc Nôm chữ 孛 hoặc 侼). Nên trong các truyện cổ Việt nam từ thời Văn Lang trở đi, ta thấy “ông Bụt” hay xuất hiện cứu giúp người bị oan trái hay khổ đau là vậy.
Về sau, khi Phật giáo truyền vào Trung Quốc, trong tiếng Hán, từ Buddha được phiên âm thành Phật đà, rồi được rút gọn thành Phật.
Vào thế kỷ thứ 4-5, do ảnh hưởng của Phật giáo Đại thừa đến từ Trung Quốc mà ở ta từ Bụt dần bị mất đi và dần được thay thế bởi từ Phật.
Vậy Phật hay Bụt là cùng một nghĩa, dùng để chỉ sự “Giác ngộ”. Theo nghĩa dân gian ta tạm hiểu “Giác ngộ” là dùng để chỉ sự “hiểu biết một cách sâu sắc, trọn vẹn”. 
Đến đây bạn sẽ tự hỏi: Phật nghĩa là từ chỉ sự “giác ngộ”, giác ngộ là sự hiểu biết về một điều gì đó. Vậy đâu có gì ghê gớm? Làm gì mà nói lắm thế?
Vậy mà không phải vậy, nó không đơn giản như bạn nghĩ. Phật hay là sự giác ngộ không phải là chỉ sự hiểu biết về một lĩnh vực gì đó, mà là sự thấu hiểu rõ ràng, thông suốt về muôn sự, muôn vật có trên cõi đời này. Bạn vẫn còn chưa hiểu đâu, và sẽ phải còn rất lâu nữa bạn mới thực sự hiểu được rằng, cái khác nhau giữa sự hiểu biết thông thường và sự hiểu biết một cách sâu sắc, trọn vẹn hay còn gọi là sự giác ngộ, sẽ khác xa nhau như thế nào.
Con người chỉ đạt được sự giác ngộ khi đã tự mình trải qua hoàn cảnh, tự mình đúc rút được kinh nghiệm. Kinh nghiệm, bài học và kết quả mà người đó hiểu được, đúc kết được, đạt được đó đều đúng với tất cả mọi người, mọi việc, mọi sự vật, mọi hoàn cảnh, mọi hiện tượng có trong thế gian. Nó trở thành một thứ chân lý tối thượng. Lúc đó người ấy mới đạt được sự hiểu biết thực sự, gọi là giác ngộ.
Cũng là hiểu biết nhưng sẽ có nhiều mức độ khác nhau, ví dụ:
- Khi bạn nghe nói ai đó thất bại trong công việc, bạn hiểu chắc hẳn người đó đã phạm sai lầm. Bạn cho rằng mình đã hiểu, nhưng không phải vậy. Khi bạn là người trực tiếp thất bại, lúc đó bạn mới thực sự thấm thía điều đó và cái hiểu của bạn lúc này sẽ ở một mức độ sâu sắc hơn, thấu rõ hơn.
Bạn nghe nói về một người bạn thất bại trong trong đường đời, bạn cho rằng mình đã biết, nhưng đó chỉ là cái biết thông thường. Khi bạn thực sự thất bại trong việc mình đang làm, trong đời sống và phải trả bằng giá đắt, bạn biết, và cái biết lúc này của bạn mới trở nên sâu sắc hơn, thực tế hơn.
Nhưng đó cũng chỉ mới là cái biết nhỏ, cái biết hạn hẹp về một hoàn cảnh, một sự việc cụ thể nào đó mà thôi. Đó vẫn chưa phải là cái biết bao trùm lên muôn sự, muôn vật (giác ngộ).
- Khi bạn nghe nói ai đó bị chó cắn, bị tai nạn mất một chân, bạn nghĩ sự việc đã thế có gì phải đau khổ, cứ vui vẻ mà sống tiếp, vì có đau khổ, buồn phiền thì cũng có thay đổi được gì đâu. Bạn hiểu đấy, nhưng đó là cái hiểu thông thường. Cho đến khi chính bạn thực sự bị tai nạn, bị mất một chân, hay hai chân, lúc đó tâm trạng của bạn sẽ thế nào? Liệu bạn vẫn có thể tiếp tục sống một cuộc đời ung dung và hạnh phúc như chưa từng có gì xảy ra?
Người hiểu biết sâu sắc, sự giác ngộ thì khác, họ thực sự hiểu cái thân này chỉ là giả tạm, có đến thì có đi, có sinh thì có diệt, có nguyên vẹn thì sẽ có không nguyên vẹn, có tồn tại thì sẽ có mất đi… vì bởi thế nên họ sẽ không đau khổ về điều đó. Để rồi cho dù có chuyện gì thực sự xảy ra với thân họ, mất một chân hay hai chân, mù lòa hay thảm bại, vẫn khiến họ không hề thay đổi cảm xúc. Họ vẫn sống một đời sống an nhiên và tự tại, an lạc và hạnh phúc. Đó mới chính là biểu hiện của cái sự hiểu biết sâu sắc, thấu rõ mọi lẽ.
Khi bạn gặp nghịch cảnh khó khăn, tan vỡ gia đình, đổ bể công việc, bệnh tật nan y… dẫu biết rằng giữa cuộc đời mọi thứ đều khó mà như ý mình muốn, nhưng liệu bạn có tránh khỏi sự buồn chán, khổ não, u sầu hay thất vọng không? Cái sự biết của chúng ta vẫn chỉ là cái biết thông thường, cái biết mê lầm, chúng ta vẫn dính mắc vào hoàn cảnh, và vẫn không thể tách rời với những cảm xúc vui, buồn, khổ não, hay thất vọng do hoàn cảnh mang đến.
Một người giác ngộ, thực sự hiểu biết sâu sắc mọi vấn đề thì không như thế, họ biết cái tâm của mình do hoàn cảnh tác động, từ đó mà nảy sinh ra những cảm xúc khác nhau. Và họ đã giữ được cho tâm mình bất động, không bị hoàn cảnh chi phối, tác động hay làm ảnh hưởng. Để rồi cho dù đời sống có thế nào, cuộc đời có ra sao, họ vẫn luôn có được tâm trạng yên ổn và hạnh phúc, thanh thản và an lạc, mọi phút mọi giây, mọi nơi, mọi lúc, mọi hoàn cảnh. Cuộc sống của họ lúc đó sẽ trở nên Vô vi (như Lão Tử nói), họ sẽ luôn ở trong cảnh giới của Thiên đàng (như Kinh Thánh nói), và đó cũng chính là Phật, là cõi Niết bàn như giáo lý nhà Phật đã mô tả.
Cái tâm của họ thoát khỏi sự phụ thuộc, thoát khỏi sự tác động của các cảm xúc, đó chính là sự “Giải thoát” mà Phật giáo muốn nói đến. “Giác ngộ” là hiểu biết, “Giải thoát” là thoát khỏi sự phụ thuộc vào cảm xúc do hoàn cảnh đem lại. Đó chính là quả vị Phật mà một người trên con đường sửa đổi nhận thức, tâm tính có thể đạt tới. Và bạn chỉ đạt được “Giác ngộ” khi bạn đã “Giải thoát” mà thôi.
Phật có nghĩa là giác ngộ, là tình trạng giải thoát trong tâm mà một người tu hướng tới. Cái này ở trong tâm của mỗi người, không liên quan đến hình tướng, nghề nghiệp, địa vị, sang hèn, nên trong kinh văn Tổ Bồ Đề Đạt Ma đã nhấn mạnh: “Nếu thấy rõ pháp ấy thì phàm phu không biết một chữ cũng có thể là Phật”.
Đa phần ngày nay chúng ta đang hiểu Phật nghĩa là một vị tối cao trong Phật giáo, trong thế giới Tâm linh. Phật là người đang được tôn sùng và thờ tự trong các ngôi chùa. Là người có mọi khả năng kỳ diệu, có hiểu biết nhiệm màu, quyền phép vô biên, có thể thấu hiểu và giúp đỡ người tu hành hay tất cả chúng sinh. Không phải vậy. Phật chỉ là một danh từ dùng để mô tả trạng thái của cái tâm con người đạt được sau khi trải qua quá trình sửa đổi. Vượt qua được cái tâm vướng mắc, khổ não để đạt được cái tâm an lạc, hạnh phúc, viên mãn đó là Phật.
Muốn đạt được điều đó, con người ta phải trải qua quá trình “tu hành” (thực hành sửa chữa thân tâm) một cách đúng phương pháp. Cũng như trong đời sống, trong công việc, trong học tập bạn muốn đạt được mục đích, kết quả thì bạn phải có phương pháp đúng. Nếu phương pháp của bạn sai sẽ dẫn đến kết quả sai, bạn sẽ không bao giờ đạt được điều mình mong muốn. Trong Phật giáo thường hay nói câu: “Tu đúng chánh pháp” là vì thế.
Người đầu tiên đạt được trạng thái giác ngộ giải thoát của tâm mình đó là một người Ấn Độ, là Thái tử Tất Đạt Đa, hiệu là Thích Ca Mâu Ni (người trí giả thầm lặng của dòng họ Thích Ca). Đạt được mục đích, chứng tỏ rằng phương pháp thực hành để đem lại kết quả đó đã đúng. Và Ngài đã truyền dạy lại phương pháp đó cho người khác, cho đời sau để họ có thể đạt được như mình. Cái cách làm, cái sự hướng dẫn đúng đắn để theo đó mà đạt được mục đích, trong Phật giáo gọi là Chính pháp (phương pháp đúng), hay Chánh Pháp (theo cách nói của người miền nam), hay nói gọn lại là Pháp.
Theo một tư duy thói quen, khi nói Phật hay Đức Phật, chúng ta thường ngầm hiểu, thường mặc định đó là Đức Thích Ca Mâu Ni, là người sáng lập ra tôn giáo Đạo Phật. Không phải vậy.
Phật chỉ là một danh từ chung, một từ dùng để mô tả, diễn đạt mà nghĩa của nó là chỉ sự giác ngộ, sự hiểu biết sâu sắc về mọi vấn đề mà con người có thể đạt tới. Nhưng vì được sử dụng trong ngữ cảnh phù hợp nên đã được hiểu theo một cách mặc định. 
Cách nói thông thường: “Phật nói”, “Đức Phật nói” là không chính xác, đó chỉ là cách gán nghĩa mặc định, vì “Phật” là danh từ chỉ trạng thái, và ai cũng có thể thành Phật. Người đầu tiên đạt được thì gọi là Phật tổ. Vì thế cách nói đúng trong khi trích dẫn kinh kệ phải là: “Phật tổ Như Lai nói…”, hay: “Phật Thích Ca nói…” để chỉ đích danh người nói.
“Cảnh giới của Phật”, hay “cõi Phật”, hay “cõi Niết bàn”, thực ra đó chỉ là một cách nói văn hoa, ẩn dụ mà thôi. Vì thế lão muốn bạn nhớ rằng: “Phật” chỉ là một từ mô tả trạng thái giác ngộ, sự hiểu biết sâu sắc, nội tâm không còn vướng mắc hay bị hoàn cảnh tác động, để từ đó mãi sống đời viên mãn, bình an, hạnh phúc mà một người có ý thức sửa đổi thân tâm, sửa đổi con người mình (tu hành) có thể đạt được. Và bất cứ ai trong chúng ta cũng có thể đạt tới điều đó. Bởi vậy mà giáo lý nhà Phật thường hay nói “Phật ở trong tâm của mỗi người”. Hoặc trong dân gian thường hay nói vui “Phật không có giới tính, không phải đàn ông, cũng chẳng phải đàn bà”, có hàm ý chế giễu những người không hiểu biết thế nào là Phật.

Thứ Sáu, 29 tháng 3, 2024

Quán Thế Âm Bồ tát là ai?


Tên nguyên bản tiếng Phạn của vị bồ tát này là Avalokiteśvara, phiên âm Hán Việt là Quán Thế Âm Bồ tát, với ý nghĩa "Đấng quán chiếu âm thanh của thế gian", hiện thân cho lòng từ bi của chư Phật.
Theo kinh Diệu Pháp Liên Hoa, ngài có tên gọi này là do hạnh nguyện từ bi cứu khổ nạn. Mỗi khi chúng sinh bị khổ đau, tai ách nếu nhất tâm niệm danh hiệu Quán Thế Âm Bồ tát, ngài lập tức nghe thấy và cứu họ.
Theo Bát Nhã Tâm Kinh, ngài vốn có tên Quán Tự Tại – tên gọi dựa trên pháp môn tu tập. Khi quán chiếu thật sâu vào chính mình, ngài ngộ ra ngũ uẩn đều là giả tạm, nhờ đó vượt thoát mọi khổ đau, nạn ách.
Tượng Bồ tát Quán Thế Âm tại Nālandā (Bihar, Ấn Độ) thế kỷ 9. (ảnh)


Theo kinh Đại Bi Tâm Đà La Ni, Phật Thích Ca dạy tôn giả A Nam rằng trong vô lượng kiếp trước, Quán Thế Âm Bồ tát đã thành Phật, hiệu là Chánh Pháp Minh Như Lai (vị như lai đã hiểu tường tận chánh pháp). Vì nguyện lực đại bi, muốn làm duyên phát khởi cho tất cả các Bồ tát, muốn cứu vớt chúng sinh nên ngài lại hiện thế, làm một vị bồ tát với danh hiệu Quán Thế Âm. Ngài vừa hiện diện thường xuyên ở thế giới ta bà vừa trợ giúp tuyên giảng chánh pháp cho Phật A Di Đà ở Tây phương cực lạc.
Còn kinh Đại Bi Liên Hoa chép, trước khi phát đại nguyện, có một kiếp, Quán Thế Âm Bồ tát là Thái tử Bất Huyền, con trưởng của Chuyển luân vương Vô Tránh Niệm, người sau này là Phật A Di Đà. Ngài được Phật Bảo Tạng cho biết rằng, Đức A Di Đà dù thọ mạng vô biên nhưng rồi cũng sẽ nhập niết bàn, khi đó Quán Thế Âm Bồ tát tiếp quản chánh pháp và cõi cực lạc và thành Phật, hiệu là Biến Xuất Nhất Thiết Quang Minh Công Đức Sơn Vương Như Lai.
1/ Quán Thế Âm Bồ tát là nam hay nữ?
Hình Quán Thế Âm Bồ tát được miêu tả trong nhiều nền văn hóa khác nhau, gồm cả thân nam lẫn thân nữ. Thật ra, ngài không có giới tính nhất định, có thể tùy duyên mà hóa thân nhằm cứu độ chúng sinh.
Kinh Phổ Môn viết rằng, Bồ tát không phải nam, cũng không phải nữ. Ngài hiện thân tùy theo nhu cầu thiết yếu của chúng sinh muốn được cứu độ, nếu là đồng nam cầu cứu thì Quán Thế Âm Bồ tát hiện thân đồng nam, nếu là đồng nữ cầu cứu thì ngài hiện thân đồng nữ. Và ngài còn nhiều hiện thân khác, tùy duyên thị hiện để cứu độ tất cả.
Ở khu vực Đông Nam Á, ngài thường được đúc tượng với hình dáng nữ, vì Quán Thế Âm Bồ tát hiện cho lòng từ bi vô tận. Đó là hình tượng một phụ nữ có gương mặt rất đẹp, hết mực hiền từ, dịu dàng, một tay cầm bình cam lộ, tay kia cầm cành dương liễu để vẩy nước trong bình cứu khổ chúng sinh.
giải việc các chùa ở Việt Nam thờ đức Quán Thế Âm hầu như đều tạc hình người nữ, Hòa thượng Thích Thanh Từ giải thích trong cuốn Phật pháp tại thế gian như sau: Với người Việt Nam từ xưa, người cha thường gắn với hình tượng nghiêm trang, nghiêm khắc, còn người mẹ dịu dàng, khi dạy con thường khuyên răn con nhỏ nhẹ, không đánh mắng.
"Cha thì nghiêm, mẹ thì từ. Bồ tát Quán Thế Âm tu hạnh từ bi, thường cứu khổ chúng sinh, nên người ta thường xưng tán ngài là Đại từ Đại bi Quán Thế Âm Bồ tát. Hạnh đại từ bi của ngài là lúc nào cũng an ủi, nhắc nhở, khuyên lơn, đem lại nguồn an vui cho tất cả chúng sinh. Ở đâu có tiếng than, có nỗi khổ, ngài đều đến để cứu vớt. Vì vậy ngài tượng trưng cho tâm hạnh từ bi. Hạnh từ bi thì gần với tình thương của người mẹ, nên người ta tạc tượng ngài là nữ. Đó là hình ảnh biểu trưng cho hạnh từ bi, chớ không phải ngài thật là người nữ", Hòa thượng Thích Thanh Từ viết.
2/ Hình tượng Quán Thế Âm có ý nghĩa gì?
Chúng ta rất dễ nhận ra tượng Bồ tát Quán Thế Âm với tay trái cầm bình cam lộ, tay phải cầm cành dương liễu.
Có thể hiểu ý nghĩa hình tượng này qua việc lý giải câu nguyện của Bồ tát Quán Thế Âm được ghi trong kinh Phổ Môn: “Nam mô thanh tịnh bình thùy dương liễu Quan Âm Như Lai cam lộ sái tâm nguyện”.
Trong đó, “thanh tịnh bình” là bình thanh tịnh; “thùy dương liễu” là cành dương liễu rủ xuống, “Quan Âm Như Lai cam lồ sái tâm” là nước cam lộ của đức Quan Âm rưới lên tâm.
Ý nghĩa câu kinh này là: Bình thanh tịnh đựng nước cam lộ, nhờ cành dương liễu rưới khắp làm cho tâm người được mát mẻ. Như vậy, hình tượng Bồ tát Quán Thế Âm tay cầm bình cam lộ, tay cầm cành dương liễu chính biểu trưng cho hạnh nguyện cứu khổ của ngài.
Nước cam lộ biểu trưng cho lòng từ bi rưới lên và làm dịu nỗi khổ của chúng sinh, làm cho chúng sinh trở nên mát mẻ, bình an. Bình thanh tịnh tượng trưng cho việc giữ giới trong sạch, thanh tịnh. Phải có giới đức thanh tịnh mới chứa đựng được lòng từ bi. Cành dương liễu mềm, dẻo, khó gãy, biểu trưng cho đức nhẫn nhục – một trong những phẩm hạnh phải có để có thể lòng từ bi rải cho chúng sinh. (Nguyệt Ánh tổng hợp - VTC news, 25/3/24)

Thứ Bảy, 17 tháng 2, 2024

Mười điều tâm niệm


Mười điều tâm niệm là:
1. Nghĩ đến thân thể đừng cầu không bệnh khổ, vì không bệnh khổ thì tham dục dễ sanh.
2. Ở đời đừng cầu không khó khăn hoạn nạn, vì không khó khăn hoạn nạn thì kiêu xa nổi dậy.
3. Tự xét tâm tính đừng cầu không khúc mắc, vì không khúc mắc thì sở học không thấu đáo.
4. Xây dựng đạo hạnh đừng mong không bị ma chướng, vì không bị ma chướng thì chí nguyện không kiên cường
5. Việc làm đừng mong dễ thành, vì dễ thành thì lòng khinh thường kiêu ngạo.
6. Giao tiếp đừng mong lợi mình, vì lợi mình thì mất đạo nghiã.
7. Với người đừng mong tất cả đều thuận theo ý mình, vì được thuận theo ý mình thì lòng tất kiêu căng.
8. Thi ân đừng cầu đền đáp, vì cầu đền đáp là có ý mưu đồ
9. Thấy lợi đừng nhúng vào, vì nhúng vào thì si mê phải động.
10. Oan ức không cần biện bạch, vì biện bạch là nhân quả chưa trả.

Chủ Nhật, 31 tháng 12, 2023

Chánh Tín



10 điều Chánh Tín, tránh Mê Tín
Trong kinh A Hàm, Đức Phật dạy:
"Một, chớ vội tin điều gì, chỉ vì điều đó là truyền thuyết.
Hai, chớ vội tin điều gì chỉ vì điều đó thuộc về truyền thống.
Ba, chớ vội tin điều gì chỉ vì điều đó được nhiều người nhắc đến hay tuyên truyền.
Bốn, chớ vội tin điều gì chỉ vì điều đó được ghi lại trong kinh điển hay sách vở.
Năm, chớ vội tin điều gì chỉ vì điều đó thuộc lý luận siêu hình.
Sáu, chớ vội tin điều gì chỉ vì điều đó phù hợp với lập trường của mình.
Bảy, chớ vội tin điều gì khi nó căn cứ trên những dữ kiện hời hợt.
Tám, chớ vội tin điều gì chỉ vì điều ấy phù hợp với định kiến của mình.
Chín, chớ vội tin điều gì chỉ vì điều ấy được vũ lực và quyền uy ủng hộ.
Mười, chớ vội tin điều gì chỉ vì điều ấy được các nhà truyền giáo hay đạo sư của mình tuyên thuyết".
"Này các thiện nam tín nữ, khi nghe một điều gì, các vị phải quán sát, suy tư và thể nghiệm. Sau khi kiểm nghiệm, nếu quý vị thực sự nhận thấy lời dạy này tốt lành, đạo đức, hướng thiện, chói sáng và được người trí tán thán, việc thực hiện các lời dạy này sẽ đưa đến hạnh phúc, an lạc ở hiện tại và về lâu dài, chỉ khi đó quý vị mới đặt niềm tin vững chắc và thực hành theo".

Thứ Hai, 27 tháng 11, 2023

Thầy Tuệ sỹ khai thị về chữ "Giới"


 

Chủ Nhật, 18 tháng 6, 2023

7 BÀI HỌC LÀM NGƯỜI CỦA ĐẠI SƯ TINH VÂN


Một hôm người đệ tử trở về, thưa với Đại Sư . Thưa thầy nay con đã có học vị Tiến sĩ rồi, sau này con phải học những gì nữa? Ngài Tinh Vân bảo: Học làm người, học làm người là việc học suốt đời chẳng thể nào tốt nghiệp được.

Thứ Nhất, “Học Nhận Lỗi“:

Con người thường không chịu nhận lỗi lầm về mình, tất cả mọi lỗi lầm đều đổ cho người khác, cho rằng bản thân mình mới đúng, thật ra không biết nhận lỗi chính là một lỗi lầm lớn.

Thứ Hai, “Học Nhu Hòa“:

Răng người ta rất cứng, lưỡi người ta rất mềm, đi hết cuộc đời răng người ta lại rụng hết, nhưng lưỡi thì vẫn còn nguyên, cho nên cần phải học mềm mỏng, nhu hòa thì đời con người ta mới có thể tồn tại lâu dài được. Tâm nhu hòa là một tiến bộ lớn trong việc tu tập.

Thứ Ba, “Học Nhẫn nhục“:

Thế gian này nếu nhẫn được một chút thì sóng yên bể lặng, lùi một bước biển rộng trời cao. Nhẫn, vạn sự được tiêu trừ. Nhẫn chính là biết xử sự, biết hóa giải, dùng trí tuệ và năng lực làm cho chuyện lớn hóa thành nhỏ, chuyện nhỏ hóa thành không.

Thứ Tư, “Học Thấu Hiểu“:

Thiếu thấu hiểu nhau sẽ nảy sinh những thị phi, tranh chấp, hiểu lầm. Mọi người nên thấu hiểu thông cảm lẫn nhau, để giúp đỡ lẫn nhau. Không thông cảm lẫn nhau làm sao có thể hòa bình được?

Thứ Năm, “Học Buông Bỏ“:

Cuộc đời như một chiếc vali, lúc cần thì xách lên, không cần dùng nữa thì đặt nó xuống, lúc cần đặt xuống thì lại không đặt xuống, giống như kéo một túi hành lý nặng nề không tự tại chút nào cả. Năm tháng cuộc đời có hạn, nhận lỗi, tôn trọng, bao dung, mới làm cho người ta chấp nhận mình, biết buông bỏ thì mới tự tại được!

Thứ Sáu, “Học Cảm Động”:

Nhìn thấy ưu điểm của người khác chúng ta nên hoan hỷ, nhìn thấy điều không may của người khác nên cảm động. Cảm động là tâm thương yêu, tâm Bồ tát, tâm Bồ đề; trong cuộc đời mấy mươi năm của tôi, có rất nhiều câu chuyện, nhiều lời nói làm tôi cảm động, cho nên tôi cũng rất nỗ lực tìm cách làm cho người khác cảm động.

Thứ Bảy, “Học Sinh Tồn”.

Để sinh tồn, chúng ta phải duy trì bảo vệ thân thể khỏe mạnh; thân thể khỏe mạnh không những có lợi cho bản thân, mà còn làm cho gia đình, bạn bè yên tâm, cho nên đó cũng là hành vi hiếu đễ với người thân.

Đại Sư Tinh Vân

Thứ Bảy, 17 tháng 6, 2023

Pho tượng Phật Thích Ca sơ sinh kỷ lục


Pho tượng Phật Thích Ca sơ sinh bằng đồng vừa xác lập kỷ lục "Pho tượng Phật nhỏ nhất Việt Nam".
Kích thước chiều cao tượng 15 mm. Đường kính tòa sen 10 mm
Nguồn: Chu Minh Khôi





Thứ Sáu, 19 tháng 5, 2023

Bé Như Ý 9 tuổi nói về chữ Hiếu.

 


Thứ Tư, 11 tháng 1, 2023

Cúng dường


Hãy Làm ơn cúng dường thức ăn cho Cha Mẹ của bạn trước khi bạn cúng dường cho các Nhà sư. Bạn sẽ không có đủ công đức để tái sinh lại làm người nếu bạn để Cha Mẹ mình đói khổ mà bạn lại đi cung phụng người khác ăn uống thỏa thích.
Loại công đức cúng dường thức ăn cho Cha Mẹ này dễ thực hiện nhất mà không cần thực hiện bất kỳ loại nghi lễ đặc biệt nào hoặc tụng bất kỳ loại kinh nào khi thực hiện. Hơn nữa, bạn có thể làm điều đó hàng giờ, hàng ngày.
Bất cứ ai không sống với Cha Mẹ của mình, có thể cung cấp cho Cha Mẹ thức ăn của trái tim. Đó là luôn thường truyền đạt suy nghĩ yêu thương của bạn đến Cha Mẹ mỗi ngày, duy trì sự gần gũi với Cha Mẹ theo cách này.
Các thiện nam tín nữ có thể làm những điều này và các bạn không cần phải lo lắng về tích lũy những loại công đức nào khác. Và khi bạn cúng dường thức ăn cho Cha Mẹ của bạn thì bạn sẽ gặt hái được rất nhiều công đức thù thắng, vì vậy bất cứ điều gì bạn đang làm nó sẽ phát triển và diễn ra tốt đẹp. Chắc chắn bạn sẽ đạt được thành tựu rất to lớn ...
** Trích từ lời dạy của Thiền Sư Luang Pu Prida Chantakaro - chùa Pa Dan Wiwek, tỉnh Sakon Nakhon, Thái Lan.


Thứ Hai, 31 tháng 10, 2022

ĐỜI NGƯỜI CÓ 8 CÁI ƠN KHÔNG ĐƯỢC PHÉP QUÊN!!!


1. 🍁Ơn sinh thành dưỡng dục của cha mẹ Cha mẹ là người vô tư với chúng ta nhất trên đời này, họ nuôi nấng chúng ta khôn lớn, dạy dỗ chúng ta làm người. Từ chín tháng mười ngày mang thai tới khi sinh nở, mẹ đã phải lao tâm khổ trí, không từ khó nhọc. Cha mẹ đã hy sinh cả cuộc đời cho chúng ta. Khi con rời xa gia đình, cơm ăn áo mặc của con đều là điều cha mẹ phải lo lắng. Ân tình của cha mẹ lớn hơn tất cả mọi thứ, chúng ta cần dùng cả đời để báo đáp cũng không đủ, vì thế phận làm con, nhất định không được bất hiếu. Từ xưa đến nay, những kẻ bất hiếu chưa bao giờ có thể làm nên đại sự. Hiếu kính với người đã sinh thành dưỡng dục chính là nền tảng tốt đẹp mở ra tương lai xán lạn, thuận lợi cho mỗi người. 
2. 🍁Ơn cứu mạng khi gặp khó khăn Đời người có rất nhiều điều bất trắc khó dự đoán trước. Dù là nguy hiểm đến tính mạng hay ảnh hưởng tới tiền của, chỉ cần có người đưa tay ra giúp đỡ trong lúc nước sôi lửa bỏng, người ấy đều là ân nhân cứu mạng của bạn. Ơnmạng nặng như núi, chúng ta nên "nhận ơn một giọt, báo ơn một dòng". 
3. 🍁Ơn dạy dỗ của thầy tốt Phẩm hạnh và tư tưởng của một người tốt hay xấu đều có liên quan mật thiết tới người thầy. Một người thầy tốt có thể đào tạo ra được một họ trò xuất sắc. Dù là về mặt học tập hay công việc, nếu có người thầy tốt chỉ bảo đôi điều, bạn sẽ được lợi cả đời. Một ngày là thầy, cả đời là cha. Ơn của ân sư nhất định phải kết cỏ ngậm vành báo đáp. 
4. 🍁Ơn tiến cử của "Bá Nhạc" Thiên lý mã chỉ khi gặp được Bá Nhạc mới phát huy được sở trường. Con người cũng như vậy, chỉ khi được người khác tiến cử, được người khác phát hiện, mới có thể giúp năng lực và tài hoa của bạn được phóng đại lên nhiều lần, có cơ hội phát huy hoàn toàn. Ơn lớn của "Bá Nhạc", đời này phải dốc lòng báo đáp. 
5.🍁Ơn chỉ dẫn thoát khỏi sai lầm Gặp phải những điều khiến ta hoài nghi cuộc đời, nhẹ thì khiến ta lạc lối, nặng thì khiến ta rơi vào cảnh không ai giúp đỡ. Nếu có người ở bên cạnh chỉ dẫn, giải thích tỉ mỉ cho bạn, giúp bạn tỉnh ngộ và tìm được phương hướng đúng đắn, có được suy nghĩ và thái độ nghiêm chỉnh, tránh lầm đường lạc lối, bạn sẽ có tiền đồ thênh thang, cuộc đời xán lạn.
Ơn chỉ dẫn thoát khỏi sai lầm này phải ghi nhớ suốt đời, báo đáp gấp nhiều lần! 
6.🍁Ơn tương trợ lúc hoạn nạn Những lúc cấp bách, đi vào đường cùng có người hết lòng tương trợ; khi rơi vào bế tắc, gặp phải phiền phức có người dốc sức giúp đỡ. Ơn huệ tương trợ lúc hoạn nạn giúp bạn tìm được sự sống trong cái chết, tìm được ánh sáng nơi cuối con đường. Ân tình như vậy, nếu không báo đáp thì sao có chỗ đứng trong xã hội? 
7.🍁Ơn dìu dắt của cấp trên Gặp được một cấp trên tốt sẽ giống như gặp được một người thầy người dẫn dắt tốt. Người ấy không tìm cách che giấu tài hoa của bạn, không đố kỵ với năng lực của bạn, còn có lòng đề bạt, để bạn có cơ hội được mở rộng tiền đồ to lớn. Hãy ghi nhớ ơn này, không được quên đi! 8.🍁Ơn anh em thủ túc Anh em chảy cùng một dòng máu, đều có gen của cha mẹ, cùng lớn lên trong một gia đình, cùng là châu báu trong lòng che mẹ. Anh em như thể tay chân, cả đời phải đoàn kết giúp đỡ nhau. Đừng lật mặt vô tình vì tiền bạc và lợi ích, đừng cắt đứt quan hệ vì nhà cửa tài sản. Vốn sinh ra từ cùng một mẹ, cớ sao lại nồi da xáo thịt? Anh em máu mủ ruột thịt, có ơn thủ túc, nhớ phải quý trọng. 🍀8 ơn này, con người chúng ta đến chết cũng không được quên. Người có ơn tất báo sẽ được trời thương; kẻ vong ân phụ nghĩa, trời đất không dung thứ! 30/10/21

Thứ Bảy, 1 tháng 10, 2022

LỜI DẠY CUỐI CÙNG CỦA ĐỨC PHẬT





Thật ra Phật đã đau yếu từ ba tháng trước và đã khởi sự dặn dò người đệ tử thân cận nhất là A-Nan-Đà. Phật bảo A-Nan-Đà tập hợp các đệ tử để nghe giảng và thông báo trước sự tịch diệt của mình. Lúc ấy Phật đã 80 tuổi. Trong những tháng cuối cùng, Phật đã gầy còm và mệt mỏi, nhưng vẫn đi thuyết giảng như thường, tuy không còn đi xa được nữa. A-Nan-Đà xin Phật hãy tịnh dưỡng trong những ngày còn lại, nhưng Ngài khoát đi và dạy rằng:
“Thân ta tuy có kém mạnh khoẻ, nhưng lòng từ bi của ta, trí sáng suốt của ta không kém sút. Ta còn tại thế ngày nào thì ngày ấy không phải là một ngày vô ích”.
Trong một khu rừng cạnh thị trấn Câu-thi-na , ngày nay là một thị trấn nhỏ tên là Kasia, cách 50 cây số về phía đông tỉnh Gorakhpur, và cách 150 kilomét về phía bắc-đông-bắc Varanasi, Phật nằm nghỉ giữa hai gốc cây sa-la.
Ngài tự gấp áo cà sa làm bốn, rồi nằm nghiêng về phía tay phải, đầu hướng về phía bắc, mặt hướng về phía tây, hai chân duỗi thẳng, chân này gác lên chân kia.
Sau đó Phật ngỏ những lời cuối cùng với các đệ tử để nhắc lại một lần nữa tầm quan trọng của Đạo Pháp. Phật nhắc nhở các đệ tử phải hiểu rằng vị thầy của họ không phải là một nhân vật nào cả, dù đó là Phật, vị thầy đích thực của họ chính là Đạo Pháp. Phật cất tiếng và nhắn nhủ các đệ tử đang ngồi chung quanh Ngài như thế này:
Này các môn đồ, các con hãy tự làm đuốc để soi sáng cho các con, hãy trông cậy vào chính sức mạnh của các con, không nên lệ thuộc vào bất cứ ai. Những lời giảng huấn của ta sẽ làm ngọn đuốc dẫn đường cho các con, làm nơi nương tựa cho các con, không cần phải lệ thuộc thêm vào những lời giảng huấn nào khác nữa.
Này các con, phút cuối cùng của ta đã gần kề, phút xa lìa giữa ta và các con không còn bao lâu nữa. Tuy nhiên các con không nên than khóc. Sự sống là một sự đổi thay không ngừng và không có gì cản trở được sự tan rã của xác thân. Cái sự thực đó, ta đang chứng minh cho các con thấy ngay trên thân xác của ta, thân xác ta sẽ tan rã như một cỗ xe hư nát. Đừng than khóc một cách vô ích, trái lại các con phải hân hoan khi nhận ra được cái quy luật biến đổi ấy và hiểu được rằng sự sống của con người chỉ là trống không mà thôi. Đừng cố gắng duy trì cái khát vọng phi lý, mong muốn những gì tạm bợ phải nhất định trở thành trường tồn.
Con quỷ của những dục vọng thế tục luôn luôn tìm cách đánh lừa tâm thức các con. Nếu có một con rắn độc trong phòng, các con sẽ không thể nào ngủ yên nếu chưa đuổi được nó ra ngoài. Các con phải cắt đứt những mối giây ràng buộc của thèm khát thế tục và dứt bỏ những mối giây đó như các con đã đuổi bỏ con rắn độc ra khỏi phòng. Các con phải bảo vệ thật cẩn thận tâm thức các con.
Này các con, giây phút cuối cùng của ta đã đến, tuy vậy các con phải hiểu rằng cái chết chỉ là sự tan rã của xác thân vật chất mà thôi. Thân xác được cha mẹ sinh ra, nó lớn lên nhờ thức ăn, nó không có cách gì tránh khỏi bệnh tật và cái chết. Một vị Phật đích thực không mang thân xác con người, mà vỏn vẹn chỉ là sự Giác ngộ. Chỉ có sự Giác Ngộ mà thôi. Thân xác con người phải tiêu tan, nhưng Trí tuệ của Giác ngộ sẽ trường tồn vô tận trong thực thể của Đạo Pháp, trên con đường tu tập Đạo Pháp. Nếu có ai chỉ thấy thân xác ta thì kẻ ấy không thấy ta một cách thật sự. Chỉ có người nào chấp nhận những lời giáo huấn của ta mới thật sự nhìn thấy ta.
Sau khi ta tịch diệt, Đạo Pháp thay ta làm vị thầy cho các con. Biết noi theo Đạo Pháp, ấy chính là cách các con tỏ lòng trung thành với ta. Trong bốn mươi lăm năm sau cùng trong cuộc đời của ta, ta không hề dấu diếm điều gì trong những lời giáo huấn. Chẳng có một lời giáo huấn nào bí mật, không có một lời nào mang ẩn ý. Tất cả những lời giảng của ta đều được đưa ra một cách ngay thật và minh bạch.
Này các con yêu quý của ta, đây là giây phút chấm dứt. Trong một khoảnh khắc nữa ta sẽ nhập vào Niết bàn. Những lời này là những lời dặn dò cuối cùng của ta cho các con.
Nam Mô Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật

Thứ Bảy, 10 tháng 9, 2022

KHỈ VỚT TRĂNG

Nhân những ngày Trung Thu, mình đăng lại một bài thơ của Thầy Thích Tánh Tuệ, mời ACE và các bạn cùng đọc nhé...
KHỈ VỚT TRĂNG
Xưa có bầy khỉ nọ
Lội xuống hồ vớt trăng
Vớt mãi hoài không được
Nên mặt mày.. nhăn nhăn.

Lắm khi mình giống khỉ
Tìm hạnh phúc trần gian,
Đôi tay vừa chạm tới
Ơ.. mộng vàng vỡ tan!.

Trăng nghìn thu vẫn đẹp
Vì không thuộc về ai,
Hồn khát khao chiếm hữu
Trăm năm nỗi đau dài.

Ta một đời ngây dại
Chạy đua với mặt trời.
Vừa thấy bờ hạnh phúc
Hoàng hôn phủ xuống đời.

Danh, lợi, tình mộng mị
Tợ đáy nước trăng ngà
Lặn chìm trong mê hoặc
Nên ngàn đời xót xa.

U mê.. thành kiếp khỉ
Chúi xuống dòng đảo điên.
Ai giật mình, ngước mặt
'' Vầng trăng xưa '' hiện tiền.

Thứ Bảy, 30 tháng 7, 2022

NHÂN - QUẢ


- Cô còn tiền giúp anh một ít!

- Anh nghĩ sao đi hỏi tiền em?

- Anh kẹt quá mới hỏi cô, thật sự Anh rất ngại!

- Thôi được rồi, Anh nhắn số tài khoản qua đây. Em gửi Anh 2 triệu tiêu vặt. Còn vay mượn thì em không có. Anh em trong nhà, Em nói Anh đừng giận, Anh ngu như từ ấy!

- Cô nói gì Anh không hiểu?

- Thì Anh giờ còn quan tâm gì ngoài đống nợ và những con số mà biết chuyện ngoài xã hội. Thôi nhắn số tài khoản cho em!

Gọi là Anh vì là con Bác họ đằng ngoại, chứ Anh kém tôi một tuổi và học thua hai lớp. Thuở còn “ở truồng tắm mưa” chơi rất thân vì hợp tính và chung ngõ với nhà Ngoại.

Tuổi thơ Anh không mấy êm đềm, vì bố mẹ Anh hay lục đục. Mẹ Anh, dân phố thị, ưng bố anh mà nhìn vào chắc không ai hiểu lý do cho quyết định của bà. Bác gái đẹp, cổ cao ba ngấn, da trắng hồng từ khuôn mặt đến gót chân. Dù sau này về dưới quê, cũng việc đồng áng lam lũ như bao người khác, nhưng Bác gái vẫn cốt cách nhẹ nhàng, thanh nhã và toát lên vẻ đẹp của người nơi phố thị. Bố anh là thương binh trên chiến trường phía Bắc. Bị mảnh đạn pháo của giặc tàu găm trúng phần đầu, nên thần kinh không ổn định. Bình thường Bác trai hiền như cục đất, nhưng khi trái gió trở trời thì như quỷ dữ. Có hôm Bác gái đang tắm trong nhà tắm che tạm bằng liếp cót, Bác trai uống rượu đâu về rượt Bác gái khỏa thân loã lồ chạy cùng khắp xóm. Bác chỉ sợ ông Ngoại tôi thôi nhưng hôm ấy ông tôi đi họp. Ai can ngăn sẽ bị vác gậy phang luôn. Càng về sau Bác trai càng nghiện rượu. Vì thế mà những trận đòn ngày một dày hơn. Chỉ khi hai Anh con Bác lớn và sức khỏe Bác kém hẳn thì mới đỡ. Khi tôi học năm 3 ĐH thì nghe tin Bác mất. Nghe tin ấy, tôi thầm nghĩ trong lòng, thôi thì dù sao cũng là giải thoát cho tất cả.

Anh học Nông Nghiệp 1 Hà Nội, ra trường thì xin làm Sales cho một hãng cám chăn nuôi.

Vài năm sau, khi tôi về quê chơi, Anh đã làm phụ trách vùng cho hãng. Lương giáo viên tôi hồi ấy chưa tròn 3 triệu một tháng thì lương, thưởng của Anh đã năm bảy chục triệu. Đi cà phê, nghe Anh kể, Anh còn buôn cả thuốc tăng trọng, chất tạo nạc của bọn đánh hàng từ TQ về cho các trang trại nuôi heo.

Tôi nghe xong, chỉ khuyên Anh nên dừng lại. Tôi nói “Anh đã có nhà tp, có đất để dành, có xe hơi tiền tỉ. Anh đừng làm việc ấy nữa. Biết là một vốn, bốn lời. Nhưng nó là vấn đề đạo đức. Nó còn nguy hại hơn buôn ma tuý, vì ma tuý chỉ bán cho con nghiện, chứ thứ ấy nó giết người từ từ không trừ một ai cả”!

Anh nghe xong chỉ gật gù, rồi lảng sang chuyện khác.

Từ ngày Ngoại mất, tôi ít về quê nên không có dịp gặp Anh. Cách đây vài năm nghe tin vợ chồng Anh ly hôn. Chị vợ là giáo viên mẫu giáo ôm con về ngoại sống ly thân hơn một năm thì ra toà ly dị. Hỏi lý do thì nghe kể Anh vướng vào lô đề, cờ bạc. Bán sạch, mất sạch, ai có thể vay cũng đã vay bằng hết. ”Đói ăn vụng, túng thì làm liều”. Đang từ con người đàng hoàng, uy tín. Anh trở thành kẻ nát rượu và vay nợ khắp nơi.

Cách đây hai năm, dạo dịch chưa căng, dịp hè tôi về quê giỗ Ngoại. Rủ Anh đi cà phê, ngồi nhìn Anh bệ rạc lắm. Mới chưa tới 35 tuổi, mà nhìn như ông lão 60, quần áo thì lôi thôi, tóc tai thì bờm xờm, mắt thì lờ đờ như mắt cá thiếu oxy vì say rượu hồi hôm. Anh nói

“Anh dành được hai trăm, vay vợ chồng thằng P em, anh mua lấy con xe Vinfast Fadin chạy đỡ. Chứ giờ đi làm xe con quen rồi, đi xe máy chạy cả ngày chịu không được, với khách hàng họ nhìn mình với con mắt khác cô mày ạ”!

Tôi bảo Anh “sao đầy xe cùng phân khúc ấy không mua, mà mua chi xe ấy”?

Nói vậy, rồi cũng chỉ biết động viên Anh, để mong Anh làm lại cuộc đời. Nhưng hôm qua, khi nghe xong cuộc điện thoại đó, tôi biết là Anh đã khó lòng mà quay đầu lại.

Phải chăng nhân - quả là đây? Nó đến sớm vậy sao?

Từ fb Lê Huỳnh Phương Thảo

 

ĂN CHAY - ĂN MẶN

 


Có người hỏi Đạt La Lạt Ma: “Mật Giáo ăn mặn hay ăn chay?” Lạt Ma Đạt Lại trả lời: “Cá nhân tôi thì ăn chay, nhưng các Lạt Ma khác đều không ăn chay”

Hỏi nữa: “Không ăn chay chính là sát sinh, há đã không phạm ngũ giới sao?”

Lạt Ma Đạt Lại hồi đáp: “ Câu nói mơ hồ thế, giống như là không ăn chay đều là sát sinh vậy, sát sinh và ăn chay không có quan hệ thái quá. Lạt Ma Đạt Lại cười rồi lại cười về sự rắc rối, lôi thôi này và nói: Các Lạt Ma không sát sinh, nhưng cũng không ăn chay.”

Bản thân tôi khi còn tu ở Triết Phong Tự, cùng với trưởng lão Kham Bố ăn cơm chung, trên bàn ăn toàn bộ là thức ăn mặn. Theo tôi được biết, ăn chay là do Phật Giáo Trung Quốc ở thời Lương Võ Đế, nhà vua đã ban lệnh cho tất cả Tăng Lữ phải ăn chay, đây là đặc sản của Phật Giáo Trung quốc, đây là để bồi dưỡng tâm từ bi, ngõ hầu xa lìa sự kết nối với những ác duyên.

Ăn chay đương nhiên rất tốt, nhưng tuyệt đối không phải chủ yếu ăn chay là thành Phật. Nếu như ăn chay khả dĩ thành Phật thì toàn bộ những trâu, ngựa, dê đã thành Phật rồi. Rất nhiều người mới phát tâm học Phật, vừa bắt đầu không tập thói quen ăn chay, nhưng trước tiên phải ăn tam tịnh nhục (3 món thịt thanh tịnh):

1/ Bất kiến sát (không trông thấy con vật bị giết);

2/ Bất văn sát (không nghe thấy tiếng kêu của con vật bị giết);

3/ Bất vi ngã sát (con vật chết không phải vì mình mà bị giết).

Đây là phương tiện đối với vấn đề ăn chay. Riêng tôi ở đây, các người tu theo Chân Phật Tông có phải ăn chay không? Tôi đáp: “Tuỳ ý”.

Nhưng người ăn mặn phải “Xuy Khí” (thổi khí) thanh tịnh, phải đọc chú của Văn Thù Sư Lợi Bồ Tát để siêu độ, dùng Mật Pháp để siêu độ nhục loại (loài vật có thịt), để hóa thành thịt thanh tịnh mà ăn, lại làm cho linh mệnh (hồn) các chúng sinh bị ăn đến đưọc chỗ tốt lành hơn. Làm như thế thì khả dĩ ăn được. Bởi vì bạn đã thương xót con vật chết, lại cầu siêu độ cho nó, cũng không kết ác duyên với nó. Trên phương diện ăn mặn, ăn chay, Hiển Giáo và Mật Giáo bất đồng với nhau. Xin các bạn hãy ghi nhớ cho kỹ câu kệ sau đây của Đức Phật:

Nhất khẩu thanh tịnh thủy

Bát vạn, tứ thiên trùng

Như quả bất trì chú

Như đồng sát chúng sinh.

(Trong một ngụm nước sạch, có hàng 8 vạn, 4 nghìn vi trùng, nếu như không đọc chú, thì cũng giống như bạn đã sát sinh)

Vì lý do trong nước có rất nhiều những sinh vật nhỏ li ti, mắt ta không thể trông thấy, cho nên chúng ta phải thận trọng suy nghĩ để hiểu cho rõ vấn đề.

Bài sưu tầm trên mạng.

 

Thứ Ba, 29 tháng 3, 2022

BÀI HỌC TỪ VỊ THIỀN SƯ.!

 Có một cô gái con nhà danh giá gần chùa bị chửa hoang, nên gia đình cô xem đây là việc xấu hổ, cha cô tra khảo, đánh đập rất bạo. Ban đầu cô định quyết tâm không khai nhưng sau đó cô thiết nghĩ nông cạn rằng khai đại Thiền sư Hakuin ở chùa gần nhà là khỏe nhất. Vì thiền sư vốn nổi tiếng, đông đệ tử, ai cũng kính trọng, hơn nữa thiền sư vốn từ bi nên không chối, không kiện ngược hay làm khổ cô. Thế là cô khai đứa con ấy là con của thiền sư.

Gia đình cô tức giận nhưng kiên nhẫn chờ đứa con được sinh ra buộc cô gái phải mang tới trả cho thiền sư.

Khi gia đình cô mang đưa bé tới thả vào tay thiền sư và bảo: “Đấy, con của ông đấy, ông giữ mà nuôi lấy, đồ đạo đức giả”.

Hakuin: “Thế à!”.

Thông tin được loan ra và dân chúng dị nghị, nghi ngờ, xầm xì, khinh thường. Họ cho rằng ông ấy mà tu hành gì, đồ đạo đức giả... rồi đệ tử cũng dần dần bỏ ra đi gần hết.

Không có sữa cho đứa bé, đệ tử xa lánh nên đích thân thiền sư phải bồng đứa bé ngày ngày đi xin sữa, bị người đời chê bai, dè bỉu.

Một thời gian, cô gái thấy điều ấy thật nhẫn tâm và tội lỗi nên quyết tâm nói ra sự thật. Cô khai đứa bé đó là con của cô và chàng bán cá tanh hôi ở chợ.

Cha mẹ cô nghe xong liền hoảng hốt, cảm thấy tội lỗi vô cùng nên tức tốc dẫn con gái tới chùa dập đầu sám hối với thiền sư và xin cháu về.

Thiền sư nghe xong, bảo: “Thế à!”.

Sự tình câu chuyện lại được loan ra và dân chúng cũng như đệ tử cảm phục đức nhẫn nhục và tâm lượng thản nhiên tốt đẹp của thiền sư nên lần lượt kéo về và danh tiếng lại hơn xưa.

Thế à!

Đứng trước những thị phi nhân ngã, người thường dễ mất bình tĩnh, chạy Đông chạy Tây để phân bua hư thật, tìm cách đáp trả hơn thua cho đến cùng.

Tuy nhiên đã là người xuất gia thì an nhiên tự tại, chỉ lặng lẽ ngồi nhìn nó đến đi, sanh diệt. Bởi lẽ rằng hơn ai hết họ biết họ đang làm gì, biết làm chủ và kiểm soát tâm họ không vì những tiếng lao xao đó len lỏi vào tâm để đánh mất sự quân bình nội tại.

Chính vì vậy cuộc sống của người xuất gia phần nào có thêm bình an và tự tại giữa cuộc đời.

Thiền sư đã đắc đạo thì sống nhân bản như vậy. Họ thấy cái họa cũng như cái phúc đều là cái "không" nên trong lòng không bao giờ buồn phiền. Họ luôn hạnh phúc. Phật mà vĩ đại là chính vì vậy, cũng là một cái "không".

--------------------

Thật ra ta lắng lòng tập trung sáng suốt vào mục đích, đừng bị ảnh hưởng bởi những lao chao không cần thiết, hãy học cách của thiền sư để biết “Thế à?!” khi sóng gió chồm dập lóc chóc xung quanh. Giữ tâm bình an mà xuôi ngược đảo quay giữa dòng đời cho vững.

 

Trị viêm đại tràng

Ai có bệnh nên dùng, bài này cũng là kinh nghiệm của già làng, nay thấy bạn này chia sẻ TL đưa luôn! *** “Người Trung Quốc nói người việt na...