Tổng số lượt xem trang

Hiển thị các bài đăng có nhãn Cộng Đồng. Hiển thị tất cả bài đăng
Hiển thị các bài đăng có nhãn Cộng Đồng. Hiển thị tất cả bài đăng

Thứ Ba, 9 tháng 4, 2024

Hiện tượng nhật thực toàn phần (8-4-2024, giờ Mỹ)


Đây là hiện tượng nhật thực toàn phần dài nhất mà cuộc đời nhiều người chỉ có cơ hội ngắm nhìn duy nhất 1 lần.
Cơ hội xảy ra lần tiếp theo khoảng từ 150 năm đến 375 năm nữa.
Nhiều thành phố ở Bắc châu Mỹ như: Mỹ, Canada, bắc Mexico sẽ chứng kiến.
Dự kiến hiện tượng nhật thực toàn phần này diễn ra trong khoảng 3,5 đến 4,5 phút.
Đối với các nhà ngoại cảm, tâm linh thì hiện tượng MẶT TRỜI BỊ MẶT TRĂNG CHE KHUẤT BÁO HIỆU CHO ÂM THỊNH, DƯƠNG SUY.
Những điều không tốt, dị tượng, bệnh tật, thiên tai ... hàng trăm năm sẽ xuất hiện, sắp đến.
Đối với các nhà khoa học thì hiện tượng Mặt Trăng, Mặt Trời, Trái Đất hoặc thêm 1 số hành tinh khác thẳng hàng càng lâu thì từ trường tác động đến điểm thẳng hàng đó ở Trái Đất sẽ tác động tiêu cực, khác bình thường.
Hi vọng nhưng dự đoán khách quan trên đều không chính xác.
Ở VN chúng ta chỉ được quan sát qua mạng xã hội, chúng ta không bị ảnh hưởng gì vì thế các bạn vẫn đi làm và ngủ nghỉ bình thường.
Các bạn Việt kiều ở Bắc Mỹ lưu ý thời gian xảy ra hiện tượng nhật thực toàn phần NÊN làm theo chỉ dẫn của chính quyền sở tại và các khuyến cáo của chuyên gia.

TK.









Thứ Bảy, 3 tháng 4, 2021

MẸ ĐƠN THÂN, ĐI CÂN DẠO, NUÔI CON HỌC, TRỞ THÀNH TIẾN SĨ TẠI PHÁP

 MẸ ĐƠN THÂN, ĐI CÂN DẠO, NUÔI CON HỌC, TRỞ THÀNH TIẾN SĨ TẠI PHÁP

Cái cân biết nói oang oang các chỉ số chiều cao, cân nặng, hình dáng béo hay gầy được chị đẩy đi, rong ruổi trên mọi nẻo đường nuôi con ăn học mười mấy năm.

Vượt qua miệng lưỡi của thế gian

“Em thương yêu! Chắc là em mong tin anh lắm phải không? Và trong đầu có lẽ đang có hàng tỉ câu hỏi vớ vẩn có đúng không? Anh đoán chắc chắn là như vậy. Em yêu, đừng có giận và trách anh nhé, cũng đừng có những ý nghĩ sai về anh… Nói thật là anh rất lo cho em. Anh đã rũ áo ra đi để lại biết bao hậu quả mà em phải gánh chịu trong khi anh lại đang nhởn nhơ ở dưới này… Em đã mất đi tất cả để đánh đổi một cái: được anh. Bởi vậy anh càng thương và yêu em, yêu em hơn ai hết”.

Đã hàng trăm lần đọc lá thư ấy chị đều không cầm được lòng. Đó là bức thư duy nhất chị nhận được nên rất nâng niu, giữ gìn. Nhưng rồi hi vọng lại thất vọng bởi người ấy đã không vượt qua được áp lực của gia đình, bỏ rơi chị nơi xứ người trong lúc bụng mang dạ chửa, dư luận bủa vây.

Ngược về quá khứ 40 năm trước, khi ấy cô gái trẻ Nguyễn Thị Lánh mới 19 tuổi đã là một y tá rất năng nổ của Trạm Y tế xã Dạ Trạch, huyện Khoái Châu, tỉnh Hưng Yên. Thời bao cấp cuộc sống khó khăn mà chờ mãi mấy năm cũng không có biên chế nên khi một người họ hàng rủ lên tỉnh Lai Châu để tìm việc làm chị đã đồng ý. Sau khi xin vào Bệnh viện tỉnh, chị còn đi học bổ túc thêm, trong thời gian này tình cờ gặp và yêu một sinh viên con của vị lãnh đạo tỉnh đang về nghỉ hè.

Cái thai là kết quả của cuộc tình đó. Khi mọi chuyện vỡ lở, mẹ anh dứt khoát lắc đầu vì không môn đăng hộ đối, lấy cớ mình bệnh tim, bà đanh thép khẳng định với chồng: “Nếu ông nhất định cho cưới thì ngày đó cũng là ngày chết của tôi”. Ba bề, bốn bên tạo áp lực. Vị lãnh đạo tỉnh kia còn đưa con trai trở về quê ở Thanh Hóa để quyết tâm chia lìa đôi lứa.

Nguyễn Văn Linh ra đời với biết bao cay đắng lặn vào trong lòng chị, với bao ước vọng ngời lên trong ánh mắt chị. Năm 1990 hai mẹ con về phép, tình cờ thoát được trận lũ quét tràn qua thị xã Lai Châu cuốn đi toàn bộ nhà cửa, cơ quan, xí nghiệp nằm phía bên bờ thấp của dòng Nậm Lay khiến gần 100 người chết và mất tích.

Phần vì mất hết đồ đạc, giấy tờ, phần vì thương con làm mẹ đơn thân nơi xứ lạ, gia đình chị mới giữ cả hai lại ở quê, họ hàng, làng xóm cùng đùm bọc. Chính quyền xã Dạ Trạch hồi ấy còn có một chính sách rất nhân văn là cấp cho mỗi phụ nữ quá lứa nhỡ thì một mảnh đất làm chỗ nương thân. Chị Lánh cũng là một trong mấy chục người được nhận đất như vậy.

Nhiều chàng trai đến mong được chở che nhưng chị nhất quyết chối từ bởi muốn dành tất tình cảm cho con. Không có bố, thằng bé đã sớm biết thương mẹ. Có buổi thấy chị đổi dép cho đồng nát, nó nói: “Mẹ ơi, đổi một chiếc thôi vì con chỉ rách có một chiếc”. Chị âu yếm cười, bảo: “Ai đời người ta cho đổi một chiếc hả con?”.

Cân ơi, vào đây

Thấy các bà cùng làng đi lên Hà Nội bán rau chị cũng xin đi buôn. Đang học mẫu giáo, một buổi thấy mẹ gánh rau ra bến sông để lên cano ngược sông Hồng, thằng bé hớt hải chạy theo, mũi dãi đầy mặt, vừa chạy vừa gào khóc: “Ối mẹ ơi”. Thương quá nên chị mới cho con lên Hà Nội cùng mình. 3 giờ sáng chị ra cầu Long Biên lấy hàng xong về nhà đánh thức con dậy, bảo bám theo dải quang rồi gánh rau đi bán rong khắp phố phường.

Đến tuổi đi học, chị phải gửi nó về cho mẹ ở quê rồi dặn dò: “Con ơi, ở nhà cố gắng mà học đi nhá! Mẹ bây giờ phải đi chợ mới có tiền nuôi con chứ cứ ở nhà thì chết đói cả”. Được cái thằng bé sáng dạ và tự lập. Nhiều bài toán khó nó nhất quyết không cho ai giúp mà cứ suy nghĩ, có khi đến 1, 2 giờ sáng cũng bật dậy vì đã tìm ra lời giải.

Buôn thật bán thà, mấy năm trời bôn ba ở Hà Nội mỗi ngày chị chỉ lãi được 10.000 - 15.000 đồng. Có lần, 3 buổi sáng liên tiếp chị bị công an bắt vào 3 phường khác nhau vì tội bán hàng rong trên vỉa hè. Khóc lóc van xin: “Ối chú ơi, cho cháu xin” nhưng vẫn không được tha. Bị tịch thu hết cả hàng hóa, sợ quá chị trở về quê, trông bệnh nhân thuê rồi nhờ ông anh làm phó cả xin đi làm phụ vữa. Nặng có 37kg nên không kham nổi việc nặng nhọc đó, chị lại vay mượn tiền nong để đi cân dạo - nghề rất thịnh hành ở Dạ Trạch hồi ấy do ông bà Minh-Hạnh là "tổ sư".

Lúc đầu chỉ là cái cân vác vai, sau mới là cái cân đẩy, biết nói oang oang các chỉ số chiều cao, trọng lượng, hình dáng béo hay gầy của khách. Để có cái cây biết nói trị giá 25 triệu ấy, 3 gia đình phải cắm cả sổ đỏ vào ngân hàng chung nhau mà mua.

Khăn bịt kín mặt, chỉ hở ra mỗi đôi mắt nên chẳng biết người đi cân là già hay trẻ, ai cũng chỉ gọn lỏn gọi mỗi một câu: “Cân ơi, vào đây”. “Dạ”, chỉ chờ có thế là chị lon ton chạy lại. Mỗi lần cân giá 500 - 1.000 đồng nhưng nhiều khi cũng bị ăn quỵt. Thân cô thế cô chị biết phải làm sao?

Niềm vui từng ngày, từng giờ của chị là dõi theo từng bước chân của con, thấy nó mỗi lúc một khôn lớn. Lúc Linh chuẩn bị thi đại học, chị nhẹ nhàng khuyên: “Nếu con thi đỗ đại học, kể cả đi vay nặng lãi mẹ cũng nuôi, còn nếu không mẹ sẽ mua cho con cái cân mà hành nghề”. Nó cười, vì quá hiểu mẹ.

Khi Linh lên Hà Nội học Đại học Xây dựng, chị bỏ cân dạo ở Hải Phòng lên theo, thuê nhà trọ ở cùng, sáng cơm nước cho con, chiều đi đến nửa đêm để mà kiếm sống.

Bình thường nghề cân dạo cũng tùng tiệm đủ ăn cho cả hai mẹ con nhưng những hôm mưa gió, những buổi về quê có việc thì không, nên cứ âm dần vào vốn, mắc nợ đến hơn 20 triệu. Hôm sinh nhật con, chị bảo: “Mẹ chẳng có tiền tặng cho con một cái gì cả, chỉ chiêu đãi con một bữa trứng vịt lộn đến chán thì thôi!”.

Nghe thấy thế, mắt Linh sáng lên, tay nó nhoay nhoáy đập, ăn liền tù tì 27 quả trứng một lúc. Chị hoảng quá phải mua cả thuốc rối loạn tiêu hóa để phòng ngừa nhưng bụng dạ nó lại chẳng sao. Có lẽ bởi Linh thiếu chất thường xuyên nên mới đói góp, no dồn như vậy.

Linh học rất giỏi, đang học thì nhận được học bổng đi Pháp. Khi hoàn thành đại học nó học lên thạc sĩ, tiến sĩ và có cả hai quốc tịch Việt - Pháp. Sau đó, chị còn được ông anh gửi gắm thằng con học đại học nên chị phải ở Hà Nội thêm mấy năm để vừa cân dạo, vừa bảo ban, giúp đỡ cháu. Từ con đẻ đến con dâu, con rể của cả 7 anh chị em, đứa nào cũng gọi là mẹ hết thành ra chị có đến mười mấy đứa con.

Giờ đây, chị trở về quê, sống thanh thản tuổi già nhờ sự giúp đỡ của con trai ở nước ngoài và trong ân tình của làng xóm. Hôm tôi đến, thấy mấy người hàng xóm đang ăn socola Pháp rồi nghe chị đọc tin nhắn của Linh: “Mẹ ơi, hôm nay nhân ngày 8/3 con chúc mẹ luôn luôn mạnh khỏe. Mẹ có mạnh khỏe bên này con mới yên tâm công tác. Con mong mẹ lúc nào cũng mạnh khỏe để làm hành trang cho con bước tiếp cuộc đời”.

Ông Nguyễn Duy Thiện - cựu Chủ tịch UBND xã Dạ Trạch: "Cả xã này chưa có nhà ai hoàn cảnh khó khăn như mẹ con chị Lánh thế mà chị ấy vẫn chấp nhận hi sinh, suốt đời không đi lấy chồng để dồn tình cảm, nuôi con thành tiến sĩ ”.

Dương Đình Tường

(Theo báo Nông nghiệp Việt Nam)

 

Cảm ơn người lớn

 "- Con phải biết rằng yêu ai và nói với người đó là mình yêu họ, đó là giây phút hạnh phúc nhất đời.

Con tôi chớp mắt:

- Thế nhỡ người đó từ chối thì sao hả ba?

- Tất nhiên tỏ tình là một hành vi rủi ro, trừ khi ta tỏ tình với một quả bom trên tay. Nhưng không thể vì cái sự rủi ro đó mà ta câm nín suốt đời. Nói ra và bị từ chối vẫn tốt hơn là không nói. Không nói gần như là bị từ chối tới những hai lần".

Cảm ơn người lớn / Nguyễn Nhật Ánh

 

Thứ Tư, 31 tháng 3, 2021

MONG ĐÓN SÁCH ĐỂ ĐỌC

 Chủ nhật vừa qua, nhà xuất bản đã cho đem lại bản in thử quyển sách sắp in xong để chỉnh sửa (tiếng chuyên môn trong nghề in ấn gọi là morát, tức là morasse của tiếng Pháp). Đây là một cuốn sách dịch từ bản tiếng Nhật viết về cuộc Duy Tân Minh Trị.

Với một người đã ở Nhật Bản 40 năm, đã chứng kiến Nhật Bản trở thành nền kinh tế thứ nhì thế giới chỉ 22 năm sau khi thua trận năm 1945, tức là từ năm 1967, tôi thật muốn tìm hiểu người Nhật đã làm thế nào để được như vậy. Họ làm cách nào để từ một nước nông nghiệp nghèo nàn, với chế độ phong kiến lạc hậu, đã trở thành một trong 8 cường quốc của thế giới hồi đầu thế kỷ 20, chỉ vài chục năm sau khi “mở nước” tiếp xúc với các cường quốc công nghiệp thời ấy.

Cuốn sách tôi giới thiệu lần này hi vọng có thể giải thích được những gì mà nhiều người còn thắc mắc “tại sao Nhật Bản làm được nhanh gọn như vậy, trong khi Việt Nam ta đã mất một thời gian dài hơn mà vẫn chưa làm được?”

Hai ngày nay, tôi mất hết thời gian cho việc chỉnh sửa bản morasse này.

Nhân đây, xin giới thiệu một chút lãng mạn trong sinh hoạt của người samurai. Đây là đoạn một samurai tức cảnh sinh tình trong một đêm cô đơn xa nhà nhớ vợ, đã ngâm một bài thơ Tanka như sau: “Moe-izuru Waka-Kusa-Yama ni netaru yo wa itsu yori imo wo koi-wataru kana (燃え出る若草山に寝たる夜はいつより妹を恋わたる哉)”.

Trong bản dịch, tôi đã chuyển thể sang hai câu thơ lục bát của Việt Nam: “Đêm nay dưới Núi Cỏ Xanh; Nàng ơi sao chẳng cùng anh đồng sàng”.

Tuy nói đúng tâm trạng của người samurai nọ, nhưng e là dịch hơi thoát.

Nay đổi lại:

“Đêm nay dưới Núi Cỏ Xanh; Một mình trằn trọc năm canh nhớ nàng!”

Tâm đắc hơn.

二日前の日曜日に出版社から今度お目見えする新しい本のゲラ刷りが届いた。これは明治維新に関する本のベトナム語版です。

日本に四十年間いて、敗戦から二十二年間の短きで世界の第二経済大国になった過程を見た者として私は機会があるごとに「なぜ日本がわずか数十年間で二十世紀初頭の世界八強の仲間入りができ、現在は世界経済に大きな影響を持っているG7の一員になっていること」について、ベトナム人仲間に紹介したいものです。今度の本にはこの答えがあるように思ったから翻訳して紹介するに至った。

さて、余談だが、本の中にはサムライが詩も嗜む一節があって、次の短歌が例として出された。つまり「燃え出る若草山に寝たる夜はいつより妹を恋わたる哉」とある。これをベトナム語の詩に次のように訳した。

“Đêm nay dưới Núi Cỏ Xanh; Nàng ơi sao chẳng cùng anh đồng sàng”.

これはサムライの気持ちをよく表しているがややストレート気味を否めない。

したがって、次のように直した。

“Đêm nay dưới Núi Cỏ Xanh; Một mình trằn trọc năm canh nhớ nàng! ”.

納得。

(Nguồn: GS Đặng Lương Mô)

Thứ Năm, 22 tháng 10, 2020

NƯỚC MỘI, RỪNG XANH VÀ SỰ SỐNG



Bài của bác Nguyên Ngọc viết từ năm 2010. Đây chính là lúc rất thích hợp để đọc.

(FB Nga Nguyen)

NƯỚC MỘI, RỪNG XANH VÀ SỰ SỐNG


Nguyên Ngọc

Thứ Năm, 18/2/2010, 10:13



(TBKTSG) - Câu chuyện này nói vào đầu xuân có thể hơi buồn, nhưng nghĩ kỹ lại có lẽ cũng có chỗ thích hợp, bởi vì đây là câu chuyện về màu xanh, màu của mùa xuân xanh. Của sự sống.
Quê tôi ở vùng Nam Trung bộ, đúng cái đoạn mà một nhà thơ từng thống thiết gọi là “dằng dặc khúc ruột miền Trung”. Ở đấy, miên man mấy trăm cây số ven biển là những cồn cát lớn, nơi trắng phau một màu trắng tinh khiết đến khó tin, nơi vàng rộm ngon lành trong nắng cháy. Làng cũng là làng trên cát; con người sống trên cát, tử sinh cùng với cát.



Tôi có đọc một ít lịch sử và tôi biết, lạ vậy, toàn cát vậy, nhưng đấy vốn không phải là một vùng đất nghèo. Từng có cả một vương quốc thịnh vượng trên dải đất này. Một vương quốc nông nghiệp và hải dương. Có lẽ một trong những bí quyết thịnh vượng của vương quốc ấy là nước, mà thiên nhiên đã rất thông minh giữ và dành cho dải đất thoạt nhìn thật khô cằn này, và con người thì cũng thật thông minh hiểu được món quà quý của đất trời, biết tận dụng lấy cho mình.

Cho đến chỉ cách đây đâu khoảng chưa đến nửa thế kỷ, ở quê tôi vẫn còn một kỹ thuật nông nghiệp rất đặc biệt, tinh tế và thú vị, gọi là kỹ thuật “tưới nước mội”, người Việt học được của người Chăm khi đi vào Nam.

Nước mội là nước rỉ ra từ các chân đồi cát, trong veo, mát lạnh, tinh sạch đến mức có thể bụm vào lòng bàn tay, ngửa cổ uống ngay ngon lành. Ở đây người ta vỡ ruộng ngay trên cát, các đám ruộng được gọi là “thổ”, những đám thổ trồng đủ các loại hoa màu. Ở góc thổ bao giờ cũng có một chiếc ao nhỏ, cạn thôi, nhưng quanh năm lúc nào cũng đầy ắp nước, tát đi lại đầy ngay, cả trong những mùa nắng hạn gay gắt nhất.

Nước mội từ trong lòng cát rỉ ra, nhẹ nhàng, chậm chạp, từ tốn, mà bất tận. Những chiếc ao nước mội, những con mắt ngọc xanh rờn, mát rượi của đất đai, làng mạc, đồng ruộng quê tôi. Nhỏ nhoi và thầm lặng, chính chúng nuôi sống nền nông nghiệp từng trù phú của vương quốc xưa, và của cả cha ông chúng tôi nữa khi họ đi về Nam…

Champa cũng là một vương quốc biển, từng dong thuyền đến những đại dương xa, và từng có những cảng quốc tế rộn rịp trên suốt dọc bờ biển của mình. Những người có đôi chút kiến thức về giao thương biển đều biết rằng một trong những điều kiện đầu tiên và quan trọng nhất của một cảng biển quốc tế là nước ngọt, phải rất dồi dào nước ngọt. Những con tàu lang thang nhiều tháng trời trên các đại dương mặn chát, lắm khi chẳng vì mua bán gì cả, vẫn phải ghé lại các cảng ven bờ để “ăn” nước ngọt.

Và trên dải cồn cát miên man của mình, người Chăm là những người thiện nghệ nhất thế gian về nghề tìm mạch nước, đào và thiết kế giếng nước ngọt. Họ như có con mắt thần, có thể nhìn thấy đường đi của nước ngọt âm thầm trong lòng đất, những dòng nước mội. Chính hệ thống giếng nước ngọt thánh thiện và tuyệt vời - từ nước mội bất tận rỉ ra mà có - đã tạo nên vương quốc đại dương Champa, tôi nghĩ nói thế cũng chẳng hề quá đáng đâu…


Từ nhỏ, là dân vùng cát cháy miền Trung, tôi đã có hạnh phúc được biết nước mội, nếm nước mội, ăn nước mội, sống và lớn lên bằng cây cỏ được nuôi bằng nguồn nước mội ân huệ bất tận.
Của trời.



Rồi về sau, cuộc đời lại đã cho tôi một may mắn khác: tôi hiểu hóa ra “trời” không phải là một đấng trừu tượng thần bí nào, mà là một thực thể sống động, khổng lồ, cường tráng, hùng vĩ…, mà lạ thay, cũng lại rất mong manh, hết sức mong manh, ngày càng đang trở nên cực kỳ mong manh!

Trường Sơn. Tây Nguyên.

Tôi đã được đi đến nơi đó và gắn bó hơn nửa cuộc đời của mình ở đó.

Hóa ra có một “bí mật” to lớn: ngọn nguồn của nước mội tuyệt diệu tưới tắm cả vùng cát dằng dặc ven biển miền Trung chính là nơi đó, Tây Nguyên, rừng đại ngàn, rừng nguyên sinh, rừng nhiệt đới Tây Nguyên.

Chính rừng Tây Nguyên, từ trên Trường Sơn rất xa xôi kia, đêm ngày, hàng triệu triệu năm nay, như một người mẹ vĩ đại, bao dung và tần tảo, hứng lấy tất cả các nguồn nước của đất trời, cất lấy, “để dành”, tằn tiện, tuyệt đối không phí mất một giọt nào, để từng ngày từng ngày chắt chiu mà bất tận cung cấp cho đứa con đồng bằng của mình, cho sự sống có thể sinh sôi, nảy nở, trường tồn trên dải đất cát trông chừng rất khắc nghiệt kia. Cho các vương quốc, các triều đại, các nhà nước, các chế độ ra đời, phát triển, nối tiếp. Và sống còn...

Nước mội chính là những dòng nước nhỏ, liên tục, không bao giờ dứt, đi âm thầm và vô hình trong lòng đất, từ những đỉnh Trường Sơn xa xôi kia, đến tận những cồn cát tưởng chẳng thể có chút sự sống này.

Vậy đó, Tây Nguyên, ý nghĩa của Tây Nguyên và rừng Tây Nguyên, dù chỉ mới là qua một khía cạnh rất nhỏ của nó, nước.

Có lẽ cũng cần nói thêm một chút nữa về điều này: không chỉ cho dải đất cát cháy miền Trung đâu. Trường Sơn có một đặc điểm quan trọng về địa hình: đường phân thủy ở đây không chạy đúng giữa mà sát ngay về phía Đông của rặng núi dằng dặc này, nghĩa là sườn phía Tây của Trường Sơn rộng hơn sườn phía Đông rất nhiều, có thể đến bốn năm lần. Tức nước từ Tây Nguyên đổ về phía Tây cũng nhiều hơn về phía Đông có thể đến bốn hay năm lần. Mà đổ về phía Tây tức là về Mêkông, về Nam bộ. Về toàn miền Nam.

Trong một chừng mực nào đó, Tây Nguyên, rừng Tây Nguyên có ý nghĩa quyết định đối với toàn miền Nam về tất cả các mặt. Nếu chỉ nói một mặt nước thôi, thì có lẽ cũng nên nhớ: nước ở miền Tây Nam bộ, ở Cà Mau kia, cũng có thể là nước mội từ Mẹ Rừng Tây Nguyên chắt chiu đưa về đấy, cho mênh mang vùng đất lúa của cả nước ấy không bị nhiễm mặn…

Hàng ngàn đời nay có những con người đã sống ở đây, gắn bó ruột thịt với rừng và đã tạo nên cả một nền văn hóa đầy minh triết bắt nguồn chính từ sự gắn bó ấy. Để bày tỏ đôi lời thật giản lược về nền văn hóa ấy và những con người ấy, chắc có thể nói vắn tắt như thế này: người Tây Nguyên không bao giờ coi rừng là tài nguyên. Không bao giờ có khái niệm khai phá, chinh phục, chiếm lĩnh tự nhiên, rừng. Đơn giản, rừng đối với họ là tất cả, là mẹ, là cội nguồn của sự sống. Mà họ kính trọng và tôn thờ.

Chúng ta, những người tự coi là rất văn minh, rất khoa học, chúng ta biết nước là nguồn gốc của sự sống, nhưng chúng ta không biết, biết bằng hành vi cụ thể chứ không phải bằng lý lẽ to tát, rằng không có rừng thì cũng chẳng có, chẳng còn nước, nghĩa là cũng chẳng còn có sự sống, chúng ta không biết cái chân lý sơ đẳng và đơn giản ấy. Nhìn thấy rừng là con mắt ta hau háu nhìn thấy gỗ, gỗ, gỗ… Và hết gỗ rồi, bây giờ, thấy tài nguyên khác… Hau háu, hung hăng, hỗn hào chặt phá, và hết chặt phá, chẳng còn gì để chặt phá nữa thì đào bới…

Ở quê tôi, nay đã kiệt nước mội rồi. Chi tiết rất nhỏ ấy thôi, vậy đó, lại đang là tai họa tày trời!

Chắc chưa ai quên vụ lũ kinh hoàng ở Phú Yên vừa rồi. Cả thành phố Tuy Hòa, thị xã Sông Cầu chìm trong nước sâu. Gần trăm người chết. Ruộng đồng tan hoang… Một vị có trách nhiệm rất cao giải thích: Ấy là vì biến đổi khí hậu toàn cầu, và lại nữa, vì nhân dân mất cảnh giác. Tại trời và tại dân, trời thì ngày càng tai ác, còn dân thì mãi ngu dốt! Có một chi tiết hẳn ở cương vị của ông ấy, ông ấy ắt phải biết nhưng lại không thấy ông nói: năm 2009, ở Phú Yên áp thấp nhiệt đới gây mưa 330 mi li mét; năm 1991, cũng tại chính Phú Yên này, mưa 1.300 mi li mét, gấp hơn ba lần. Năm 1991 không có gì đáng kể, năm 2009 lại là tai họa khủng khiếp, vì sao?

Ở miền Trung - mà ở cả nước đều vậy - ngày xưa chỉ có lụt và lụt là mùa rất vui, thậm chí thân thiết, mỗi năm lại trở lại một lần, người ta chờ nước lụt, nước lên từ tốn, ruộng đồng được tưới tắm phù sa, cũng là lúc làm ăn rộn rã, có lẽ cũng tương tự như mùa nước nổi ở Nam bộ thuở nào.

Ngày nay không còn lụt, chỉ có lũ. Lũ rất khác lụt, lũ là nước đột ngột đổ ập xuống, như thác, hung bạo, nhanh và dữ cho đến nỗi, như vừa rồi, có người đã leo lên trần nhà rồi còn chết ngạt trong ấy vì không kịp dỡ mái để leo lên nữa! Lũ không mang phù sa đến, lũ quét sạch tất cả những gì nó gặp trên đường đi, và kéo đất đá từ trên rừng xuống lấp hết ruộng đồng.

Tất nhiên ngày xưa cũng có lũ, nhưng chỉ trong những năm mưa đặc biệt lớn, cả đời một con người chỉ chứng kiến vài lần. Ngày nay hễ đài vừa báo áp thấp nhiệt đới, thậm chí chỉ áp thấp, là cả nước đã rùng rùng lo chống lũ, sập núi, trôi rừng…

Con số 1.300 li năm 1991 và 330 li năm 2009 là con số hùng hồn, nó nói rằng vụ Phú Yên vừa rồi không phải chủ yếu do biến đổi khí hậu toàn cầu, không phải do trời, như lời giải thích uyên bác của vị quan chức nọ.

Do người. Do cơ chế nước mội tinh tế, tinh vi, thông minh, nhân hậu tuyệt vời của thiên nhiên đã không còn, đã bị phá vỡ, đã bị con người triệt diệt bằng cách triệt diệt rừng. Rừng Tây Nguyên. Trong một cuộc trao đổi ở Liên hiệp các Hội khoa học kỹ thuật Trung ương vừa rồi, nhiều chuyên gia đã cảnh báo: không chỉ có nguy cơ lũ quét đâu, sau lũ quét sẽ tiếp đến nguy cơ hạn hán sẽ còn khốc liệt, tai hại hơn. Bởi vì nước mội và lụt hàng năm hiền lành là cùng một cơ chế, cùng một tác giả: Rừng. Rừng Tây Nguyên.

Trong hơn 30 năm qua, chúng ta đã làm xong một công việc to lớn: cơ bản phá hết, cạo sạch đến tận cùng rừng tự nhiên trên cái mái nhà sinh tử của toàn Đông Dương này. Đã quét sạch xong hết trên mặt đất, bây giờ đang bắt đầu moi sạch nốt dưới lòng đất. Cao su tuyệt đối không phải là rừng, không sinh ra cơ chế nước mội. Các khu công nghiệp của công nghiệp hóa và hiện đại hóa càng tuyệt đối không phải là rừng. Một quy luật vận hành ổn định, điều hòa, thông minh của tự nhiên đã bị triệt diệt, nhanh và cơ bản hơn tất cả mọi giai đoạn từng có trong lịch sử. Một quy luật khác đã được thiết lập, quy luật của hỗn loạn.

Hãy nhìn lên cái mái nhà chung kia mà bao nhiêu thế hệ nhiều ngàn năm qua đã giao lại cho chúng ta, trên ấy đã mất hết màu xanh của sự sống.

Có còn cứu được không?

Còn, với một điều kiện: biết giật mình, dừng lại, bắt đầu lại.

Cũng cần nói: hầu hết các nước mà ngày nay ta gọi là những nước phát triển đều đã đi qua “con đường đau khổ”, cũng từng tàn phá hết rừng trên mặt đất và đào bới tàn bạo lòng đất, ở nước họ, rồi ở các nước khác. Chỉ có điều, gần một thế kỷ trước họ đã giật mình dừng lại, và từ đó bắt đầu làm lại, khôi phục lại màu xanh cho đất đai, núi non của họ.

Đi sau, chúng ta có thể khôn ngoan hơn như lẽ ra phải thế. Sự vội vã, kiêu căng, và lòng tham không đáy, đã che mắt chúng ta. Đang còn tiếp tục che mắt chúng ta. Chúng ta vẫn còn hăng lắm trong việc chặt phá nốt đôi chút còn lại và đang bắt đầu một công cuộc đào bới hung dữ.

Cần ngay bây giờ chấm dứt mọi khai phá ở Tây Nguyên. Cần nghĩ đến một con đường sống khác, một kiểu sống khác, một kiểu phát triển khác. Trên cả nước. Trước hết trên mái nhà sinh tử Tây Nguyên. Bắt đầu lại một công cuộc cứu lấy Tây Nguyên. Bắt đầu một sự nghiệp to lớn trồng lại rừng Tây Nguyên, trong một trăm năm, quyết liệt, kiên định, thông minh, với những kế hoạch cụ thể, cho 50 năm, 20 năm, 10 năm, 5 năm, toàn Tây Nguyên, từng tỉnh, từng huyện, từng xã, từng làng.

Khôi phục lại màu xanh cho Tây Nguyên.

Bắt đầu ngay từ hôm nay, mùa xuân, mùa của màu xanh, của sự tỉnh táo, khôn ngoan.

Cho đến một ngày, có thể một trăm năm nữa, con cháu chúng ta sẽ có thể bụm vào lòng bàn tay một ngụm nước mội trong veo mát lạnh rỉ ra từ đất cát và ngửa cổ uống ngon lành. Và biết rằng cha ông chúng từng rất dại dột, nhưng rồi cũng đã từng biết khôn ngoan, để cho sự sống từng sắp bị triệt diệt, lại được cứu, lại sinh sôi, phát triển, trường tồn.

Chủ Nhật, 6 tháng 9, 2020

ĐÀI TRUYỀN HÌNH VIỆT NAM


Cách đây 75 năm, đúng 11 giờ 30 phút ngày 7/9/1945, chỉ 5 ngày sau khi đất nước Việt Nam độc lập, có tên trên bản đồ thế giới, buổi phát thanh kéo dài 30 phút với nội dung chính là toàn văn bản Tuyên ngôn độc lập của Chủ tịch Hồ Chí Minh đã đánh dấu sự ra đời của Đài phát thanh tiếng Việt đầu tiên trên thế giới, đồng thời đánh dấu sự ra đời của loại hình báo chí mới: Báo Phát thanh ở Việt Nam.

Trong suốt 75 năm qua, rất nhiều thế hệ thính giả luôn dành tình cảm sâu đậm cho tiếng nói Việt Nam và để đáp ứng yêu cầu thông tin, tâm tư nguyện vọng, tiếng nói của Đảng đến với thính giả và từ thính giả đến với các cấp, Đài TNVN đã cho ra đời nhiều chương trình, khung chương trình đáp ứng các nhu cầu không chỉ cho thính giả, mà còn là độc giả, khán giả của Đài TNVN trong thời đại công nghệ thông tin bùng nổ. Nói đến phát thanh không thể không nói đến âm nhạc. Ngay từ những buổi đầu phát sóng, âm nhạc đã song hành và trở thành một trong những động lực mạnh mẽ lan tỏa làn sóng của Đài.

Đúng 11 giờ 30 phút trưa 7/9/1945, Đài Tiếng nói Việt Nam chính thức cất tiếng chào đời với lời xướng: “Đây là Tiếng nói Việt Nam, phát thanh từ Hà Nội, Thủ đô nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa” trên nền ca khúc hùng tráng “Diệt phát xít” của nhà thơ, nhạc sĩ Nguyễn Đình Thi do các ca sĩ nghiệp dư hát trực tiếp dàn nhạc nhỏ bé và nghiệp dư. Trong chương trình đầu tiên ấy, Đài Tiếng nói Việt Nam có lời chào ra mắt: “Thưa đồng bào toàn quốc và thính giả thân mến! Bắt đầu từ hôm nay, ngày 7/9/1945, Tiếng nói của Việt Nam chính thức ra mắt đồng bào trong cả nước và các bạn thính giả khắp năm châu… Nước Việt Nam Dân chủ, Cộng hòa đã có thủ đô của mình là Hà Nội, và hôm nay cất tiếng nói chính nghĩa của mình, đấu tranh cho nền độc lập non trẻ vừa giành lại, đồng thời góp phần cùng tiếng nói của nhân dân yêu chuộng hòa bình toàn thế giới đấu tranh cho dân chủ, hòa bình, hữu nghị và bình đẳng giữa các dân tộc…”.

Đài chính thức truyền đi bản Tuyên ngôn Độc lập bất hủ do Chủ tịch Hồ Chí Minh tuyên đọc năm ngày trước tại Quảng trường Ba Đình lịch sử. Tiếp đó là tin tức thời sự bằng ba thứ tiếng: tiếng Việt, tiếng Pháp và tiếng Anh. Sau này, Thủ tướng Phạm Văn Đồng xúc động nhớ lại:“Khoảnh khắc thời gian ấy, giờ phút lịch sử ấy chỉ diễn ra trong 90 phút, nhưng mãi mãi in đậm vào ký ức của người Việt Nam”.

Thứ Bảy, 25 tháng 4, 2020

NHỚ ÔNG TỔ NGHỀ BÁ́́NH CHƯNG, BÁNH GIẦY ( LANG LIÊU)

NHỚ ÔNG TỔ NGHỀ BÁ́́NH CHƯNG, BÁNH GIẦY ( LANG LIÊU)
Thơ: Đỗ Tấn Thích


Mỗi năm vua ra chiếu hiền
Dâng hương lễ vật tổ tiên cội nguồn
Người dâng đặc sản chim muông
Kẻ dâng hải sản, thuồng luồng ngọc trai
Trăm dân muôn họ sánh vai
Muốn chiếm bằng được ngai vàng vua cha
Có một công tử hiền hòa
Được tiên chỉ bảo món quà giản đơn
Dùng gạo nếp nấu thành cơm
Cho vào khuôn gỗ lá vòng xung quanh
Chính giữa thêm miếng thịt thanh
Tô thêm mắm muối, đường, hành, tiêu thơm
Lang Liêu tỉnh giấc cảm ơn
Đêm khuya vắng lặng trống trơn mình chàng
Lệ rơi hiện rõ hai hàng
Mừng mừng tủi tủi hét vang căn phòng
Thế là lễ vật đã xong
Đem dâng lễ vật bánh tròn bánh vuông

TẾT NÀY "XIN CÁO LỖI" KHÔNG DÙNG RƯỢU BIA
Thơ: Đỗ Tấn Thích

Xuân sang rộn rã tiếng cười
Tôi xin bày biện vài lời tại đây
Tết đến tề tựu xum vầy
Nâng cao ly rượu nồng say tình đời
Nhưng vì tôi uống "rất tồi"
Xin được cáo lễ dùng mồi thay bia
Dòng thơ viết vội đêm khuya
Tết này không rượu không bia đừng mời
Rượu bia bao kẻ chơi vơi
Gia đình tan nát tả tơi chia lìa
Dù ai nói nọ nói kia
Lòng tôi vẫn vững rượu bia không dùng
Anh nào có chí anh hùng
Anh nào đô khỏe cứ dùng tự do
Người dùng cũng được vài vò
Uống vào chẳng thấy hay ho, ích gì
Dùng nhiều đầu óc mê si
Ruột gan nóng rát bụng phì béo thêm
Cồn vào đôi mắt nhá nhêm
Đôi tai đỏ hoắc cộng thêm ù ù
Dị ứng thân thể mưng phù
Nhấc thêm một bước ngã cù lăn quay
Dùng nhiều cồn ngấm thì say
Nói năng thua lỗ vung tay ngắt lời
Còn đâu thể diện mà chơi
Rượu bia bao kẻ nát đời thanh danh
Người ơi xin nghĩ thông hanh
Đừng vì sĩ diện, đừng tranh nhất đời.



CHÚ Ý
Thơ: Đỗ Tấn Thích
Trà bí lại có tính hàn
Pha với rượu nóng Long An uống vào
Sáng ra ói mửa ào ào
Xin anh đừng uống nó bào ruột gan
Nếu uống thì uống rượu vang
Một ly nho nhỏ xuân sang đón chào
Tiết xuân trời đổ mưa rào
Uống rượu khuây khỏa khác nào đón xuân
Đời người nhiều lắm gian truân
Tốt đời đẹp đạo là mừng là vui


MẾN PHỤC BÁC VÁ XE

"Thiện căn ở tại lòng ta
Chữ nhân kia mới bằng ba chữ tài"
Sinh viên cố gắng miệt mài
Đi đường đã có bác này lo cho
Vá xe miễn phí cho trò
An nhiên tự tại không lo, không phiền
Vứt tiền, sống cảnh điền viên
Tu nhân, tích đức phước hiền đời sau.



CHƯƠNG TRÌNH GÂY QUỸ,
VÌ BỆNH NHÂN UNG THƯ
Thơ: Đỗ Tấn Thích

Hướng dương ơi, Hướng dương ơi
Loài hoa dẫn lối trăm đường sáng soi
Chương trình gây quỹ gọi là
Ước mơ của Thuý tạo đà bệnh nhân
Bà con cô bác xa gần
Giúp em được ước mơ hồng từ lâu.

(Mùa mưa bão, cơn bão số 9, ngày 25/11/2018)

Trị viêm đại tràng

Ai có bệnh nên dùng, bài này cũng là kinh nghiệm của già làng, nay thấy bạn này chia sẻ TL đưa luôn! *** “Người Trung Quốc nói người việt na...