Tổng số lượt xem trang

Hiển thị các bài đăng có nhãn Giải Thưởng Nobel 2020. Hiển thị tất cả bài đăng
Hiển thị các bài đăng có nhãn Giải Thưởng Nobel 2020. Hiển thị tất cả bài đăng

Chủ Nhật, 18 tháng 7, 2021

Cảm ơn Katalin Karikó vì 40 năm thăng trầm khoa học, để tạo ra những liều vắc-xin COVID-19 hôm nay


"Nếu có ai hỏi tôi rằng tôi sẽ bỏ phiếu cho ai đoạt giải Nobel, tôi sẽ ưu tiên Karikó và Weissman" - Derrick Rossi, giáo sư Trường Y Harvard, đồng sáng lập công ty công nghệ sinh học Moderna.

Khi Katalin Karikó cùng chồng và con gái đặt bước chân đần tiên xuống nước Mỹ, trong tay họ gần như chẳng có gì. Quy định người nhập cư khi đó chỉ được đổi tối đa 100 USD, cô phải bàn với chồng bán chiếc xe hơi gia đình ở chợ đen, giấu số tiền đó vào gấu bông của con gái. Và họ đã làm đúng như vậy.

Năm 1985, nhà hóa sinh người Hungary quyết định rời quê hương để theo đuổi giấc mơ Mỹ, một giấc mơ chung của cả một thế hệ người Đông Âu thời đó.

"Ở nhà, chúng tôi cũng vừa chuyển đến một căn hộ mới. Con gái của chúng tôi mới được 2 tuổi, mọi thứ đang rất tốt và chúng tôi rất hạnh phúc", Karikó ngậm ngùi nói. "Nhưng chúng tôi cũng phải đi thôi".

Phía bên kia Đại Tây Dương, nước Mỹ trong cơn khát chất xám đã hứa cho Karikó một vị trí nghiên cứu sau tiến sĩ tại Đại học Temple. Đó là tất cả những gì mà gia đình Karikó có thể bám víu vào. "Ngoài ra, chúng tôi không quen biết ai ở đây cả. Chuyến đi này chúng tôi chỉ có vé một chiều", cô nói.

Vậy là ngoài 100 USD tiền đổi cộng với 1.000 USD giấu được trong con gấu bông, thứ tài sản lớn nhất mà Karikó mang tới Mỹ khi đó chỉ còn khối chất xám trong đầu cô, nơi những ý tưởng về một công nghệ sinh học hoàn toàn mới đang được thai nghén: vắc-xin mRNA.

Trong thế giới tự nhiên, cơ thể chúng ta phải dựa vào hàng tỷ protein siêu nhỏ để duy trì sự sống và sức khỏe.

Enzyme có trong nước bọt đang giúp bạn tiêu hóa thức ăn là một loại protein. Hemoglobin trong máu đang giúp vận chuyển oxy tới từng tế bào của bạn cũng là protein. Tất cả các kháng thể của hệ miễn dịch đang giúp bạn chống lại mầm bệnh cũng là protein.

Protein xây dựng lên tóc, cơ bắp và cả xương của bạn. Chính xác thì protein có mặt và làm nên từng tế bào trên cơ thể chúng ta. Nhưng cái gì tạo nên protein?

Quá trình sinh tổng hợp của protein trong tế bào đã được nghiên cứu từ những năm 1940. Trong đó, các nhà khoa học biết chúng được tạo thành từ các mảnh nhỏ hơn được gọi là axit amin. Axit amin lại được cấu thành từ 4 nguyên tố của sự sống bao gồm Carbon (C), Hydro (H), Nitơ (N) và Oxy (O).

Cơ thể con người chỉ có tổng cộng 20 axit amin, nhưng sự sắp xếp của chúng có thể tạo ra từ 80.000 -400.000 protein. Quá trình sắp xếp axit amin được thực hiện ở ribosome của tế bào, trong một động tác được gọi là dịch mã.

Đầu vào của quá trình dịch mã tạo ra protein này chính là các mRNA hay RNA thông tin. mRNA có nhiệm vụ nói cho tế bào biết loại protein nào mà nó đang thiếu. Sau khi nhận được thông tin từ mRNA, tế bào mới chỉ đạo sản xuất ra đủ lượng và loại protein mà nó cần để hoạt động.

Về lý thuyết, nếu bạn có thể thiết kế ra một loại mRNA của riêng mình và đưa vào tế bào, bạn có thể chiếm quyền điều khiển quá trình dịch mã và tạo ra bất kỳ loại protein nào bạn muốn – từ kháng nguyên để chủng ngừa bệnh truyền nhiễm, các enzym để đảo ngược một căn bệnh hiếm gặp hoặc các tác nhân tăng trưởng để hàn gắn các mô tim bị tổn thương.

Trong nhiều thập kỷ, các nhà khoa học đã mơ về khả năng dường như vô tận của mRNA. Họ coi nó như một cuốn sách công thức cho hàng nghìn tỷ tế bào của cơ thể. Ý tưởng là nếu bạn có thể tổng hợp ra một mRNA nhân tạo và tiêm nó vào cơ thể mình, mỗi tế bào trong cơ thể bạn sau đó cũng sẽ đều trở thành một nhà máy sản xuất thuốc hoặc vắc-xin theo yêu cầu.

Với công nghệ vắc-xin mRNA, bạn có thể miễn nhiễm với căn bệnh mà không cần phải tiêm vào cơ thể phiên bản virus được làm yếu. Và cũng bởi vậy, vắc-xin mRNA an toàn hơn rất nhiều so với vắc-xin truyền thống, bạn không thể vô tình bị nhiễm bệnh từ chúng.

Công nghệ mRNA chính là thứ đã giúp chúng ta có được những liều vắc-xin COVID-19 đầu tiên trong đại dịch năm 2020. Nhưng trở lại thập niên 1980, đó vẫn là một câu chuyện hoàn toàn viễn tưởng.

Đơn xin tài trợ liệu pháp mRNA đầu tiên của Karikó đã bị từ chối vào năm 1990, một năm sau khi cô chuyển công tác đến Đại học Pennsylvania. Sau đó, hết lần này đến lần khác chúng còn bị từ chối nhiều hơn nữa.

"Tôi tiếp tục viết và cải thiện cách tiếp cận – thiết kế ra những RNA tốt hơn, phân phối tốt hơn", Karikó nói. "Tôi đã đưa ra các ứng dụng, v.v., cố gắng xin tài trợ của chính phủ, tài trợ tư nhân từ các nhà đầu tư, nhưng mọi người đều từ chối".

Vấn đề nằm ở một điểm chí tử của công nghệ mRNA. Những phân tử này là thứ mà hệ miễn dịch sẽ nhận diện như một mầm bệnh ngoại lai, và sẽ tiêu diệt chúng trước khi mRNA có thể kích hoạt tế bào sản xuất ra protein cũng như vắc-xin.

Đó là lý do tới năm 1990, các nhà khoa học Mỹ bắt đầu hoài nghi về mRNA. Họ nhận thấy RNA trần khi được tiêm vào cơ thể người sẽ gây ra phản ứng miễn dịch cấp tính. Phản ứng này sẽ gây viêm tại chỗ và phá hủy toàn bộ mRNA được tiêm vào trước khi chúng tiếp cận được tế bào, chứ chưa nói đến đoạn kích hoạt nhà máy ribosome để sinh ra protein như mong muốn.

Những mũi tiêm mRNA bị đánh giá là hoàn toàn vô nghĩa, sẽ chẳng có nhà máy vắc-xin nào trong cơ thể, và chẳng có protein nào được tạo ra cả. Karikó đã mất 6 năm để giải bài toán hóc búa mà cô gặp phải. Nhưng không có tài trợ đồng nghĩa với việc bài toán ấy sẽ trở thành một nghịch lý:

Khi liệu pháp mRNA không nhận được sự tin tưởng, sẽ không có ai tài trợ cho dự án phát triển chúng. Khi không có ai tài trợ cho các dự án mRNA, công việc nghiên cứu chúng sẽ bị đình trệ. Và khi nghiên cứu bị đình trệ thì đột phá sẽ không được tạo ra. Mọi người sẽ tiếp tục không tin vào tiềm năng của mRNA.

Vòng luẩn quẩn ấy cứ lặp đi lặp lại, sẽ không có ai tài trợ cho Karikó và công nghệ mRNA sẽ vĩnh viễn bị chôn vùi.

Karikó bị giáng chức tại Đại học Pennsylvania vào năm 1995, bởi công trình nghiên cứu của cô bị đánh giá là dậm chân tại chỗ. Đó là một hình thức kỷ luật thường sẽ kết thúc sự nghiệp khoa học của những nhà nghiên cứu thời đó.

Lương giảm, không thu hút được sinh viên, Karikó thậm chí còn mới mắc ung thư và chồng cô thì bị kẹt lại Hungary sau một chuyến trở về rồi không xin lại được visa vào Mỹ.

"Bất cứ ai ở vào hoàn cảnh của tôi khi đó đều sẽ nghĩ đến chuyện buông xuôi. Mọi thứ ập đến quá kinh khủng", Karikó nói. "Tôi đã nghĩ đến chuyện trốn chạy tới một nơi khác, tìm một công việc khác. Tôi cũng tự dằn vặt và nghĩ rằng hay mình không đủ giỏi, không đủ thông minh".

 Năm 1998, Drew Weissman, một nhà khoa học trẻ khác đang nghiên cứu vắc-xin HIV chuyển đến Đại học Pennsylvania từ Viện Y tế Quốc gia Hoa Kỳ. Lần đầu tiên Karikó gặp người đồng nghiệp mới của mình là bên cạnh máy photocopy.

"Tôi đứng bên cạnh chiếc Xerox và nói với anh ấy rằng tôi có thể tạo ra bất cứ mRNA nào mà tôi mong muốn", Karikó nhớ lại. Đó là những gì mà cô vẫn nỗ lực để đạt được trong 2 năm tiếp theo sau khi bị giáng chức và mất tiền tài trợ nghiên cứu.

Mặc dù mắc bệnh ung thư, Karikó vẫn cố gắng giữ cho ngày làm việc của cô bắt đầu lúc 6 giờ sáng. Cô ấy lao đầu vào công việc ngay cả trong ngày cuối tuần và ngày lễ - thậm chí thỉnh thoảng ngủ lại ban đêm trong văn phòng.

"Những người khác nhìn vào sẽ nghĩ tôi thật điên rồ và chật vật, nhưng bản thân tôi thấy mình hạnh phúc khi ở trong phòng thí nghiệm", cô nói. "Chồng tôi ngày nào cũng nói "Khoa học cứ như trò giải trí cho em vậy". Tôi đáp lại rằng: "Thì em đâu có đi làm đâu. Đến phòng thí nghiệm giống như đi chơi hơn".

Trong những giờ khắc nản chí nhất của mình, Karikó đã nghĩ "dù thế nào mình cũng phải tiếp tục công việc".

Weissman hiểu tầm quan trọng của những gì Karikó nói đồng thời bị cuốn hút bởi câu chuyện và niềm đam mê của cô với mRNA. Cô ấy kể lần đầu tiên mình biết đến những phân tử kỳ diệu này là năm 1976, khi còn là một cô sinh viên tại Đại học Szeded, Hungary.

Trước đó, mRNA đã được tìm thấy vào năm 1961, một khám phá ngay lập tức đã gây ra một cơn địa chấn trong giới khoa học mùa hè năm đó.

Với sự phát hiện ra vai trò của phân tử này trong quá trình phiên mã từ DNA và dịch mã ra protein, sau 10 năm trời, các nhà khoa học mới có thể chứng minh DNA không phải là một chuỗi xoắn vô dụng trong tế bào, mà chính là thành phần quan trọng nhất của nó.

Sau đó, họ bắt đầu tự hỏi liệu có thể lợi dụng phân tử mRNA này để biến cơ thể chúng ta thành nhà máy sản xuất thuốc và vắc-xin hay không? Hướng nghiên cứu này bị rơi vào bế tắc trong suốt 14 năm, bởi khoa học thời điểm đó chỉ đơn thuần là không có các thiết bị để chế tạo ra mRNA nhân tạo.

Các nhà khoa học chỉ có thể chiết xuất mRNA từ tế bào, chứ không thể tạo ra các mRNA hoàn toàn mới. Vậy thì khả năng thao túng tế bào và biến chúng thành các nhà máy sản xuất vắc-xin cũng giống như chúng ta nhìn thấy một Hệ Mặt Trời mới bên ngoài vũ trụ mà không có một chiếc tàu du hành nào bay được tới đó.

Nhưng đến năm 1984, nhà hóa sinh người Mỹ Kary Mullis đã phát minh ra phản ứng chuỗi polymerase (PCR), một phương pháp khuếch đại một lượng rất nhỏ DNA lên số lượng lớn. Đó là tiền đề cho phép các nhà nghiên cứu có thể sử dụng PCR để tạo mRNA nhân tạo vào năm 1989.

"Đối với các nhà khoa học làm việc trên mRNA, đó quả là một đột phá mạnh mẽ", Karikó nói. "Đột nhiên chúng tôi cảm thấy mình có thể làm được mọi thứ". Nhưng máy PCR chỉ mới phổ biến ở Mỹ khi đó, Karikó đã phải đưa ra một quyết định khó khăn, rời khỏi Hungary để theo đuổi giấc mơ của mình.

10 năm ở Mỹ sau đó là khoảng thời gian vừa đủ cho giấc mơ Mỹ của Karikó bị sụp đổ. Làm việc tại Đại học Temple được 4 năm thì Karikó gần như bị ép phải thôi việc sau một lần tranh cãi kịch liệt với sếp. Cô chuyển sang Đại học Pennsylvania để tiếp tục nghiên cứu thì lại đụng phải một hòn đá tảng thứ hai trong lĩnh vực mRNA.

Đó là việc không còn ai có thể tin họ có thể phân phối mRNA vào bên trong cơ thể người mà không tạo ra phản ứng miễn dịch khiến mũi tiêm trở nên vô dụng, thậm chí gây nguy hiểm cho người nhận chúng. Karikó đã làm hàng ngàn chồng hồ sơ xin tài trợ, thuyết trình khắp mọi nơi để thuyết phục những ai có thể tin vào điều đó nhưng cô đã thất bại.

Vậy mà chỉ một cuộc nói chuyện tình cờ ngắn ngủ bên cạnh máy photocopy, cô ấy lại vô tình thuyết phục được Weissman- người tuy chỉ là đồng nghiệp mới của cô nhưng lại đang nắm trong tay đủ nguồn lực để hỗ trợ Karikó tiếp tục giấc mơ của mình.

Biết được Karikó hiện đang khó khăn trong việc xin tài trợ, Weissman đã chia sẻ một phần tiền trong phòng thí nghiệm của anh sang cho cô. "Điều ấy đã giúp tôi thấy lạc quan hơn để tiết tục", Karikó nói. "Mặc dù lương của tôi được trả còn thấp hơn cả kỹ thuật viên trong phòng của Drew, nhưng sự ủng hộ của anh ấy đã khiến tôi tập trung để vượt qua những trở ngại".

Không chỉ tài trợ kinh phí, Weissman còn trực tiếp tham gia vào cùng với Karikó trong việc giải nút thắt cho bài toán phân phối mRNA. Họ để ý các nghiên cứu trước đó cho thấy hệ miễn dịch của vi khuẩn có thể được kích hoạt để chống lại virus xâm nhập nhờ vào các dấu hiệu đặc trưng trên nucleotide cấu thành RNA virus.

Mỗi chủng virus dường như đều có các dấu vết đặc trưng trên nucleotide của mình - bao gồm adenine (A), cytosine (C), guanine (G) và uracil (U) - giống như một dấu vân tay của con người. Một khi vi khuẩn nhận ra dấu "vân tay lạ", chúng sẽ kích hoạt hệ thống miễn dịch để tiêu diệt virus xâm nhập.

Karikó và Weissman nghi ngờ rằng hệ miễn dịch của con người cũng đã hoạt động theo cơ chế tương tự. Và nếu họ có thể đánh lừa được nó, mRNA sẽ có thể được tiêm vào cơ thể một cách an toàn mà không gây ra phản ứng miễn dịch nguy hiểm.

Nhưng làm thế nào để đánh lừa cơ thể? Karikó và Weissman đã liên tục biến đổi các nucleotide này thành một phân tử "nhân tạo" thay thế cho chúng.

Ví dụ, biến adenine A thành A’, A’’, A’’’… Các phân tử A’ này về cơ bản vẫn là adenine A, làm nhiệm vụ như một adenine A trong quá trình phiên mã và dịch mã, đảm bảo chức năng tạo ra protein. Nhưng chúng sẽ có các "dấu vân tay" khác nhau, và một trong số đó là dấu vân mà hệ miễn dịch của cơ thể người không nhận được ra.

Đầu những năm 2000, Karikó tình cờ phát hiện ra một thay đổi trên uracil (U) chính là thứ mà cô đang tìm kiếm. Một sửa đổi trên nucleotide này biến U thành U’ đã ngăn chặn được phản ứng miễn dịch trên chuột khi được tiêm mRNA ngoại lai.

"Tôi đã nhớ Drew khi đó đã phải thốt lên: Ôi trời, nó không gây ra phản ứng miễn dịch này!", Karikó nói. "Tại thời điểm đó, chúng tôi đã biết đây là một cột mốc rất quan trọng, vì nó có thể mở ra con đường dẫn tới các liệu pháp y tế và vắc-xin mới".

Đó là năm 2005, Karikó và Weissman đã xuất bản một bài báo, nộp một bằng sáng chế và thành lập một công ty công nghệ sinh học để thương mại hóa sản phẩm của mình. Nhưng rốt cuộc, cả cộng đồng khoa học hầu như chẳng ai quan tâm đến sáng chế mới của họ.

"Không ai mời chúng tôi đi bất cứ đâu để nói về nó", Karikó nhớ lại. Đại học Pennsylvania đã thẳng tay bán bằng sáng chế độc quyền của Karikó và Weissman cho bên thứ ba.

Bẵng đi một thời gian năm 2010, khi Derrick Rossi, một giáo sư tại Trường Y Harvard đọc được nghiên cứu 5 năm trước của Karikó. Ngay lập tức, Rossi đã nhận ra đó là một công trình xứng đáng với một giải Nobel.

"Nếu có ai hỏi tôi rằng tôi sẽ bỏ phiếu cho ai, tôi sẽ ưu tiên Karikó và Weissman. Khám phá cơ bản của họ cuối cùng sẽ trở thành những loại thuốc giúp ích cho thế giới", ông nói.

Tầm nhìn của Rossi được hiện thực hóa vào cùng năm đó, ông đã cùng với một nhóm giáo sư Harvad và MIT lập ra Moderna, một công ty công nghệ sinh học nhắm đến việc sửa đổi mRNA để tạo ra vắc-xin và thuốc điều trị bệnh.

Đại diện của Moderna cũng đã tiếp cận với Karikó và Weissman để mua bằng sáng chế sửa đổi mRNA của cặp đôi, nhưng đã quá muộn, Đại học Pennsylvania trước đó đã bán nó cho một công ty khác là Cellscript.

Moderna vì thế phải tự mình nghiên cứu tạo ra các bản sửa đổi mRNA mới, nhưng về cơ bản, công việc của họ vẫn dựa trên những khám phá của Karikó và Weissman. Quá trình lặp lại đó mất tới 4 năm, Moderna cuối cùng cũng đạt tới những thành công nhất định.

Năm 2013, nghiên cứu của họ đã thu hút được AstraZeneca, gã dược phẩm khổng lồ của Anh đang tìm kiếm những đột phá mới trong ngành dược. Họ đã quyết định đầu tư 240 triệu USD vào Moderna để tìm kiếm, phát triển và thương mại hóa các phương pháp điều trị mRNA cho các bệnh liên quan đến tim mạch và ung thư.

Cùng năm Moderna đạt được bước tiến ấy, Karikó được mời tới Đức. Ở đó, có một doanh nhân gốc Thổ Nhĩ Kỳ tên là Ugur Sahin cũng đã nhìn ra được sự phát triển của lĩnh vực nghiên cứu mRNA. Ông ấy đã thành lập một công ty khởi nghiệp khác tên là BioNTech.

Tài năng của Karikó lúc bấy giờ đã được giới đầu tư mạo hiểm đặc biệt chú ý, thậm chí tranh giành nhau để có sự phục vụ của cô. Moderna cũng là một trong số những công ty sẵn sàng trải thảm đỏ mời cô ấy đến làm việc. Nhưng Đại học Pennsylvania thì dường như vẫn tuyệt nhiên coi Karikó như một đứa con ghẻ.

Họ từ chối đơn xin bổ nhiệm lại vị trí giáo sư mà cô ấy đã bị giáng chức từ năm 1995, lấy lí do Karikó không có năng lực giảng dạy. Giọt nước tràn ly này đã khiến cô ấy dứt áo ra đi. Karikó nhận lời Ugur Sahin để trở thành Phó chủ tịch cấp cao tại BioNTech.

"Khi tôi nói với họ rằng tôi sẽ rời đi, họ đã cười nhạo tôi và nói rằng BioNTech chỉ là một công ty còn không có trang web", Karikó nhớ lại.

Tại BioNTech, Karikó đã lãnh đạo chương trình nghiên cứu phương pháp thay thế protein RNA để tạo ra các loại vắc-xin và thuốc chữa bệnh mới. Năm 2017, họ đã đạt được tới thành công khi phát triển được một vắc-xin mRNA đầu tiên chống lại được virus Zika trên chuột và khỉ.

Cùng năm đó, Moderna cũng tạo ra được một vắc-xin chống lại Zika của riêng mình. Nhưng công nghệ mRNA nhìn chung vẫn chỉ là một thứ gì đó nằm ngoài tầm radar của công chúng và giới truyền thông, ngoại trừ những doanh nhân đứng đầu các quỹ mạo hiểm muốn đầu tư vào đó.

Mọi chuyện chỉ thay đổi vào năm 2019, sau khi một virus corona có tên là SARS-CoV-2 được phát hiện tại Trung Quốc và gây ra đại dịch toàn cầu COVID-19 chỉ trong vòng 1 năm sau đó. Cả Moderna và BioNTech đều biết rằng đây chính là cơ hội để chứng minh bản thân mình với thế giới.

Với tất cả kinh nghiệm trong lĩnh vực này, Moderna chỉ mất 2 ngày sau khi gộ gen SARS-CoV-2 được giải mã để thiết kế ra một loại vắc-xin chống lại COVID-19. Cùng khoảng thời gian đó, Karikó và BioNTech ở Đức cũng đã khởi động một chương trình phát triển vắc-xin cho riêng mình hợp tác với gã dược phẩm khổng lồ Mỹ Pfizer.

Tháng 11 năm 2020, những mũi vắc-xin COVID-19 đầu tiên của liên doanh Pfizer/BioNTech đã được cấp phép tiêm chủng tại Anh, sau đó là Mỹ và hàng loạt quốc gia khác trên thế giới. Thử nghiệm lâm sàng cho thấy vắc-xin dựa trên công nghệ mRNA mà Pfizer/BioNTech phát triển có hiệu quả tới hơn 90%.

Liên doanh đã hứa cung cấp hàng trăm triệu liều vắc-xin mRNA cho thế giới vào cuối năm 2021: 300 triệu liều được đặt hàng bởi Liên minh Châu Âu, 120 triệu liều từ Nhật Bản, 100 triệu liều cho Mỹ và 40 triệu liều cho Vương quốc Anh.

Moderna cán đích thứ hai trong cuộc đua sản xuất vắc-xin COVID-19 với cùng công nghệ mRNA tương tự đã được ươm mầm từ nghiên cứu của Karikó từ hơn 20 năm về trước. Những thay đổi trong phân tử mRNA bé nhỏ đã biến Moderna từ một công ty khởi nghiệp thành một công ty có trị giá 35 tỷ USD, sau khi vắc-xin COVID-19 của họ kết thúc thử nghiệm lâm sàng với hiệu quả 94%.

Phía bên kia Đại Tây Dương, BioNTech cũng từ một công ty khởi nghiệp "chẳng có nổi một trang web" đã trở thành một công ty trị giá 25 tỷ USD với hơn 1.500 nhân viên. Karikó, hiện đã 65 tuổi, vẫn đang giữ vị trí Phó chủ tịch cấp cao tại BioNTech.

Ngày cô rời nước Mỹ về Châu Âu, Karikó đã nói với chồng mình rằng: "Em sẽ không về cho đến ngày mũi vắc-xin mRNA được tiêm cho người đầu tiên. Anh biết đấy, em có một khao khát nhìn thấy người đầu tiên được chữa khỏi".

"Bây giờ thì tôi có thể về nhà được rồi", Karikó nói.

Những mũi tiêm vắc-xin COVID-19 của Pfizer/BioNTech đã được tiêm cho 40.000 người thử nghiệm vào tháng 11 năm 2020. 50 triệu liều vắc-xin của họ đã được chốt đơn hàng vào cuối năm ngoái. Dự kiến đến chỉ trong vòng năm 2021, Pfizer/BioNTech sẽ sản xuất và phân phối hơn 1,3 tỷ liều vắc-xin COVID-19 cho toàn thế giới.

Sau tất cả những nghịch cảnh mà mình trải qua để đi tới thành công, Karikó chỉ chia sẻ một động lực giữ cho cô ấy trở nên lạc quan: "Tôi luôn tâm niệm rằng mình cần phải giúp đỡ mọi người, vì vậy, tôi đã luôn cố gắng để đưa các nghiên cứu của mình trở thành những ứng dụng ngoài đời thực".

Nhưng có lẽ chính bản thân Karikó cũng chưa bao giờ nghĩ mình có thể giúp được nhiều người đến thế trong một dịch bệnh toàn cầu như COVID-19. "Thực sự thì tôi chưa bao giờ tưởng tượng được điều ấy sẽ xảy ra. Tôi chỉ cảm thấy rất vui khi đã đóng góp được một phần công sức nhỏ bé của mình vào câu chuyện thành công này".

Bài viết:

Thanh Long

Thiết kế:

TOM

Ảnh:

Sưu tầm

 


Thứ Năm, 3 tháng 6, 2021

NGƯỜI PHỤ NỮ NÀY SẼ ĐƯỢC GIẢI NOBEL

 

NGƯỜI PHỤ NỮ NÀY SẼ ĐƯỢC GIẢI NOBEL

Kariko Katalin, người phụ nữ đã từng bị chê cười, đã từng nhiều lần bị ngăn cản, thường xuyên bị sa thải, lí lịch của bà đầy rẫy những thất bại và đau khổ. Nhưng hôm nay, bà được coi là một trong những người phát minh ra công nghệ mRNA, từ đó tạo ra vaccine COVID-19 tiên tiến nhất thế giới. Cuộc đời Kariko Katalin không có từ dễ dàng, nhưng đó là một câu chuyện về niềm tin vô điều kiện vào một ý tưởng có thể làm thay đổi cả thế giới.

🙏Khi thế giới mong đợi vaccine COVID-19 🙏

Được chờ đợi nhất là vaccine công nghệ mRNA, Cục Quản lí Thực phẩm và Dược phẩm Hoa Kỳ đứng ngoài cửa đón lõng đầu tiên, nhanh chóng cấp thẻ xanh. So với công nghệ vaccine truyền thống, mRNA hứa hẹn hiệu quả hơn, nhanh hơn, an toàn hơn, ít tác dụng phụ hơn; có thể so sánh sự khác biệt giống như xe máy và chuyên cơ.

Khái niệm mRNA được học từ lớp 9, bài giảng sinh học đã dạy mRNA có chức năng truyền đạt thông tin quy định cấu trúc của protein.

Chữ m = messenger = thông tin.

Để dễ hiểu, có thể hình dung quá trình tổng hợp mỗi protein trong cơ thể con người giống như giải một bài toán phức tạp, mRNA trở thành cuốn sổ tay những công thức toán học.

Nếu con người tạo ra được vaccine dưới dạng mRNA nhân tạo, khi tiêm vào cơ thể, mRNA sẽ nguỵ trang giống như thằng kẻ trộm lẻn vào nhưng không đánh thức chủ nhà, nó âm thầm xây dựng một hệ thống phòng thủ là những protein kháng thể, để khi virus tấn công sẽ bị hệ thống ấy tiêu diệt.

Lí thuyết đơn giản như vậy nhưng thực tế rất phức tạp.

Kariko Katalin bị ám ảnh bởi mRNA, bà hiểu đây là loại RNA rất đặc biệt, nó nắm tất cả bí quyết tạo ra hàng tỉ tỉ protein trong cơ thể con người. Về mặt lí thuyết, khoa học hoàn toàn có thể điều khiển mRNA để tạo ra loại protein có chủ đích, làm được điều đó thì mRNA trở thành vũ khí mạnh nhất khống chế hàng loạt bệnh tật.

Ý tưởng đó thật đẹp, nhưng chỉ là lí thuyết, sự hiểu biết về mRNA vào những năm 1980 vẫn còn rất hạn chế. Về mặt nguyên tắc, khi tiêm mRNA vào cơ thể con người, thì đó là dị nguyên, nên ngay lập tức hệ thống phòng thủ của cơ thể sẽ phá huỷ trước khi mRNA thực hiện các chức năng nhiệm vụ. Nghĩa là vaccine mRNA dù nguỵ trang tài tình đến mấy thì vẫn là thằng kẻ trộm, khi đột nhập nó sẽ đánh thức chủ nhà tổ chức vây bắt và tiêu diệt. Nhưng điều nghiêm trọng hơn, đó là cơ thể con người chống lại thằng kẻ trộm theo cách bản năng quá mạnh mẽ, tạo ra phản ứng miễn dịch nghiêm trọng, có nguy cơ tử vong.

Sau rất nhiều thất bại, hầu hết các nhà khoa học đã bỏ cuộc, chẳng ai còn quan tâm đến mRNA, kiến thức đó chỉ nằm trên trang sách giáo khoa sinh học lớp 9 và lớp 10, để học sinh thi với những câu hỏi rất nhàm chán.

Kariko Katalin không bị khuất phục.

Bà lao đầu vào nghiên cứu, những công trình của bà đã gây được sự chú ý của hai công ti non trẻ Modena (Canada) và BioNTech (Đức), cùng với ông lớn Pfizer (Mỹ) quyết định đầu tư sản xuất vaccine COVID-19 theo công nghệ mRNA, đó là cú áp phe không khác gì một chuyến du hành lên sao hoả.

Công nghệ mRNA sẽ không dừng lại ở sản xuất vaccine, mà trong tương lai không xa, hàng loạt “dịch bệnh” như ung thư, đột quỵ, hay các bệnh hiểm nghèo khác cũng hứa hẹn sẽ được thanh toán.

✍40 năm trên băng ghế lạnh lẽo ✍

Kariko Katalin sinh ngày 17 tháng 1 năm 1955 ở Szolnok (Hungari), trong một ngôi nhà tranh không có tiện nghi, nhưng đầy đủ tình thương của tổ ấm gia đình. Kariko Katalin thừa hưởng gen yêu thích sinh học của bố là người làm nghề bán thịt lợn, gen kiên trì nghiên cứu của mẹ là một kế toán viên, được hưởng sự giáo dục niềm say mê sinh học từ các giáo viên trường kisújszállási.

Do hoàn cảnh nghèo khó, Kariko Katalin đã dốc hết tâm lực trong những năm đại học, cô giành được học bổng Cộng hoà Nhân dân Hungary, đó là học bổng danh giá nhất lúc bấy giờ. Tiếp tục học lên tiến sĩ, rồi làm việc tại trung tâm nghiên cứu sinh học của Học viện Khoa học Hungary ở Szeged.

Cô theo đuổi công nghệ mRNA.

Đó là lĩnh vực đòi hỏi phải đầu tư rất nhiều tiền của, các nhà khoa học khác đã bỏ chạy, đất nước Hungary những năm 1980 là quốc gia tự do cởi mở nhất trong khối Liên Xô cũ, nhưng cũng chẳng có tiền để tài trợ cho những nghiên cứu lớn.

Kariko Katalin bị mất việc ở tuổi 30.

Ban đầu cô tìm việc làm ở khối châu Âu, nhưng không nơi nào chịu nhận, bởi cô chẳng có thành tích khoa học gì đáng kể.

Vào một buổi chiều năm 1985, Kariko Katalin cùng chồng đưa cô con gái hai tuổi của họ rời đất nước Hungary, tìm đường đến Hoa Kỳ. Tài sản duy nhất có giá là chiếc ô tô cũ. Bán đi được 900 bảng Anh trên thị trường chợ đen. Để mang trót lọt số tiền ấy, Kariko Katalin phải rạch con gấu bông đồ chơi của con gái, nhét 900 bảng vào, rồi khâu lại.

Thời gian đầu ở Mỹ, Kariko Katalin được nhận vào làm việc tại Đại học Temple, nhưng chẳng bao lâu sau nhóm của cô bị giải tán vì không kiếm được kinh phí tài trợ. Năm 1989, Kariko Katalin làm ở khoa dược Đaị học Pennsylvania, mặc dù là giáo sư chính thức, nhưng đây là thời gian khó khăn nhất, lương rất thấp và không ai tin cô. Năm 1995, Kariko bị giáng xuống mức thấp tận cùng, không nhận được tài trợ, không tìm nổi dự án; Đại học Pennsylvania quyết định sa thải.

Đó là quãng thời gian kinh khủng.

Căn phòng cô ở bị dột nát trong mỗi cơn mưa chiều tối, cô lại bị mắc căn bệnh ung thư mới được chẩn đoán, chồng cô đang ở Hungary không thể đến Mỹ vì vấn đề Visa, công việc dành bao nhiêu thời gian và tâm huyết dường như đang tuột khỏi tầm tay.

Kariko Katalin nói: “Tôi bắt đầu nghi ngờ rằng có lẽ mình không đủ giỏi, không đủ thông minh. Và tôi cố gắng tự nhủ rằng mọi thứ đã ở đây, tôi chỉ cần thực hiện các thí nghiệm tốt hơn.”

✍ĐỔI ĐỜI ✍

Vào năm 1998, Kariko Katalin cuối cùng đã nhận được khoản tiền tài trợ đầu tiên, đó là 100 ngàn đô la.

Thật kì lạ, năm đó cô cũng gặp được một người đàn ông của cuộc đời. Đó là buổi chiều định mệnh, Kariko Katalin đi phô tô tài liệu, cô gặp Drew Weissmen, một người đồng nghiệp mới vừa chuyển đến từ Viện Y tế Quốc gia.

Trong lúc chờ phô tô, Kariko Katalin kể với Weissmen về ý tưởng tạo ra mRNA, theo đúng mong muốn. Ngay lập tức Weissmen nhìn thấy trước mắt mình là một khối tài sản vô giá. Anh quyết định đầu tư, cộng tác cùng Kariko Katalin, quyết tâm phát triển công nghệ mRNA trong lĩnh vực y sinh học.

Vào năm 2005: mRNA phiên bản mô đun suy yếu ra đời!

Chuỗi mRNA được cấu tạo bởi mạch đơn, thẳng, bao gồm các nucleotid. Mỗi nucleotid gồm hai thành phần là nucleoside và gốc phốt phát. Nucleoside lại được hình thành bằng cách ngưng tụ D-ribose và các base. Các base đó là Adenin, Guanin, Cytosine và Uracil. Kariko và Weissman tổng hợp mRNA với khả năng “lẻn” qua một số lượng nhỏ các chất thay thế base, đống thời sử dụng các hạt nano lipid bao bọc xung quanh, làm cho mRNA được nguỵ trang giống như tên trộm lẻn vào tế bào cơ thể người mà không kích hoạt hệ thống miễn dịch bảo vệ nào.

Sau khi đọc công trình nghiên cứu, Derrick Rossi, một chuyên gia tế bào gốc Canada đang làm nghiên cứu sinh tại Đại học Stanford đã vô cùng kinh ngạc. Thời cơ đã đến. Nhận thấy cơ hội kinh doanh siêu lợi nhuận, Rossi âm thầm lặng lẽ tìm vốn đầu tư, ông thành lập một công ti bé nhỏ, lấy tên là Moderna.

Tại Đức, một nhóm nghiên cứu mới cũng phát hiện ra tiềm năng của Kariko Katalin, công ti mới BioNTech được thành lập, lấy trụ sở tại Hoa Kỳ. Năm 2013, BioNTech thuê Karko Katalin làm chuyên gia cao cấp mRNA.

Moderna và BioNTech chưa làm được gì nhiều cho đến năm 2020.

Khi đại dịch COVID-19 bùng nổ, Moderna thúc đẩy sản xuất vaccine theo công nghệ mRNA, thêm công ti BioNTech được Pfizer đầu tư hàng tỉ đô la quyết tâm biến ý tưởng của Kariko Katalin thành hiện thực.

Chắc chăn Kariko Katalin cùng với đồng nghiệp Derrick Rossi sẽ đoạt giải thưởng Nobel trong một ngày không xa.

BS. Trần Văn Phúc



Thứ Tư, 16 tháng 12, 2020

TOÀN CẢNH GIẢI NOBEL NĂM 2020

 Mùa Nobel bắt đầu vào tháng 10 mỗi năm khi các ủy ban ở Thụy Điển và Na Uy xướng tên những người đoạt giải trong nhiều hạng mục khoa học, văn chương, kinh tế, và hòa bình, cho những nhà khoa học, tác giả, và nhà hoạt động đóng góp lớn lao cho sự tiến bộ chung của nhân loại.
Giải đầu tiên được xác định là Y sinh vào thứ hai, ngày 5-10, rồi đến các giải Vật lý, Hóa học, Văn chương, rồi Kinh tế, và cuối cùng là Hòa bình.
Thông lệ mỗi năm là những người được trao giải sẽ có mặt ở Stockholm và Oslo vào tháng 12 để đọc diễn từ và nhận giải. Nhưng năm nay vì dịch virus corona, cách làm có khác.
Một số sự kiện ở Stockholm sẽ bị hủy, thay vào đó là một lễ trao giải qua mạng, với huân chương Nobel và chứng chỉ được chuyển cho đại sứ quán các nước có công dân đoạt giải.
Những người đoạt giải năm nay có thể được mời tới lễ trao giải năm 2021, nếu khi đó tình hình cho phép.
Lễ trao giải Nobel Hòa bình ở Oslo năm nay cũng sẽ nhỏ hơn, với số người tham dự hạn chế.
Năm nay, ủy ban Nobel còn tuyên bố thêm một thay đổi: Mỗi giải sẽ kèm khoản tiền thưởng 10 triệu krona Thụy Điển (khoảng 1,12 triệu đôla), cao hơn 1 triệu krona so với năm trước.
TTO - Ủy ban Nobel của Viện Karolinska (Thụy Điển) ngày 5-10 công bố giải Nobel y sinh 2020 cho 2 nhà khoa học người Mỹ và 1 người Anh, với các công trình nghiên cứu về virus viêm gan C.
Ba người này gồm nhà nghiên cứu, nhà virus học và bác sĩ người Mỹ Harvey J. Alter, nhà khoa học người Anh Michael Houghton, và nhà virus học người Mỹ Charles M. Rice.
Ủy ban Nobel cho biết những phát hiện của họ đã tiết lộ nguyên nhân của những trường hợp viêm gan mãn tính, giúp thực hiện các xét nghiệm máu cần thiết và các loại thuốc mới để cứu sống hàng triệu người.
Ủy ban cho biết cả 3 nhà khoa học được vinh danh "vì những đóng góp mang tính quyết định trong cuộc chiến chống lại bệnh viêm gan C lây truyền qua đường máu - một vấn đề sức khỏe toàn cầu gây ra xơ gan và ung thư gan".
Kì 1 - Y Sinh - Ảnh 1.
Kì 1 - Y Sinh - Ảnh 2.
Kì 1 - Y Sinh - Ảnh 3.TTO - Thời điểm công bố đã bị lùi lại chút ít nhưng rồi thì 3 nhà khoa học Roger Penrose, Reinhard Genzel và Andrea Ghez đã được xướng tên cùng nhận giải Nobel vật lý 2020 vì các công trình nghiên cứu hố đen vũ trụ.
Kì 2 - Vật Lý - Ảnh 1.
Kì 2 - Vật Lý - Ảnh 2.
Phần trướTTO - Nobel hóa học 2020 đã về tay 2 nhà khoa học nữ nghiên cứu phát triển công nghệ chỉnh sửa gen là tiến sĩ Emmanuelle Charpentier và tiến sĩ Jennifer A. Doudna.
Kì 3 - Hóa Học - Ảnh 1.
Kì 3 - Hóa Học - Ảnh 3.
Ky 4 - Văn Học - Ảnh 1.
Ky 4 - Văn Học - Ảnh 2.
Ky 4 - Văn Học - Ảnh 3.
Ky 4 - Văn Học - Ảnh 4.
Bà viết nên thứ thi ca mơ màng, gợi tả, gợi lên những ký ức và những hành trình, nhưng thỉnh thoảng dừng lại lưỡng lự trước những tri kiến mới. Thế giới đấy được giải thoát trôi dạt đi, chỉ để rồi xuất hiện trở lại như một phép lạ.
Ky 5 - Hoà Bình - Ảnh 1.
Giải thưởng trị giá khoảng 1,1 triệu USD sẽ được trao tại Oslo, thủ đô Na Uy vào ngày 10-12, ngày mất của người sáng lập giải thưởng Alfred Nobel. Năm nay, lễ trao giải sẽ nhỏ gọn hơn mọi năm vì dịch COVID-19.

Nobel Kinh tế về tay 2 nhà kinh tế nghiên cứu lý thuyết đấu giá - Ảnh 1.

Các nhà kinh tế Abhijit Banerjee, Esther Duflo và Michael Kremer cho biết nghiên cứu của họ nhằm "đảm bảo công cuộc chiến đấu với đói nghèo có căn cứ khoa học".c
"Lần đầu tiên trong lịch sử, virus viêm gan C có thể được chữa khỏi" - Ủy ban Nobel nói khi công bố quyết định vào chiều 5-10 (giờ Việt Nam).
Bệnh viêm gan C được xem là nguyên nhân gây ra nhiều ca tử vong hơn đại dịch virus corona hiện tại. Đây là một vấn đề lớn và các khám phá này là một bước tiến dài" - giáo sư Gilbert Thompson của ĐH Hoàng gia London (Anh) nhận định.
Theo đó, nghiên cứu của nhà khoa học Alter đã chứng minh rằng một loại virus không xác định là nguyên nhân phổ biến của bệnh viêm gan mãn tính. Ông Houghton đã giúp phân lập bộ gen của loại virus mới và đặt tên là virus viêm gan C. Nhà khoa học Rice đã cung cấp bằng chứng cuối cùng cho thấy riêng mình virus viêm gan C cũng có thể gây ra bệnh viêm gan.
Giải Nobel y sinh được trao cho những khám phá quan trọng và nổi bật trong lĩnh vực khoa học sự sống và y học. Nobel Y sinh được trao lần đầu vào năm 1901. Đến nay, Ủy ban Nobel đã trao tổng cộng 111 giải cho 222 nhà khoa học trên thế giới.
Tất cả các giải thưởng Nobel đều được trao tại Thụy Điển vào tháng 12 hằng năm, trừ giải Nobel hòa bình ở Na Uy. Giá trị giải thưởng năm nay là 10 triệu krona Thụy Điển (hơn 1.118.000 USD), tăng thêm 1 triệu krona so với năm ngoái.
Sự kiện trao giải này thường được tổ chức vào ngày 10-12 hằng năm để tưởng niệm ngày mất của người sáng lập ra giải thưởng Nobel là nhà bác học Alfred Nobel.
Tuy nhiên, do đại dịch COVID-19, Quỹ Nobel - cơ quan quản lý các giải thưởng Nobel - ngày 21-7 thông báo hủy tổ chức bữa tiệc trao giải truyền thống năm nay. Chủ nhân của giải Nobel năm nay sẽ nhận giải tại nhà riêng hoặc tại các đại sứ quán.
Ba nhà khoa học Roger Penrose, Reinhard Genzel và Andrea Ghez đã cùng được vinh danh giải Nobel vật lý 2020 vì những đóng góp quan trọng trong lĩnh vực vật lý thiên văn.
Theo các thành viên trong ủy ban công bố giải Nobel, các nhà khoa học được trao Nobel vật lý năm nay là để tôn vinh những khám phá của họ về một trong những hiện tượng kỳ thú nhất của vũ trụ: hố đen.
ác nhà khoa học sẽ cùng chia sẻ giải thưởng 10 triệu crown Thụy Điển (1,1 triệu USD). Trong đó, một nửa giải thưởng dành cho ông Penrose (người Anh) vì đã chứng minh thuyết tương đối tổng quát (hay thuyết tương đối rộng) dẫn tới việc hình thành các hố đen.
Một nửa giải thưởng dành cho hai nhà khoa học Genzel (nhà vật lý thiên văn người Đức) và Ghez (người Mỹ) vì đã khám phá ra "vật thể vô hình siêu nặng, chi phối quỹ đạo các ngôi sao ở trung tâm ngân hà của chúng ta".
Ông Roger Penrose là nhà vật lý toán, toán học thường thức và triết học người Anh. Ông là thành viên của Hội Hoàng gia London. Ông Penrose nổi tiếng trên thế giới với các công trình nghiên cứu về vật lý toán, đặc biệt là những đóng góp của ông đối với thuyết tương đối tổng quát và vũ trụ học. Ông nhận nhiều giải thưởng lớn, trong đó có giải Wolf năm 1988, nhận cùng với nhà vật lý lừng danh Stephen Hawking.
Bà Andrea Ghez là nhà thiên văn học người Mỹ và là giáo sư tại khoa vật lý và thiên văn học tại UCLA. Năm 2004, tạp chí Discover đã bầu chọn bà Ghez là một trong 20 nhà khoa học hàng đầu tại Mỹ có sự am hiểu lớn trong lĩnh vực chuyên môn tương ứng của họ. Năm 2012, bà được trao giải Crafoord.
Trước đó, nhật báo Dagens Nyheter của Thụy Điển dự đoán hai nhà vật lý thiên văn Shep Doeleman của Mỹ và Heino Falcke của Đức có thể được trao Nobel vật lý 2020 vì công trình nghiên cứu của họ giúp quan sát trực tiếp hình ảnh lỗ đen trong tháng 4-2019.
Trong khi đó, Đài SR của Thụy Điển đoán giải sẽ được trao cho nhà toán học người Mỹ Peter Shor, người đã mở đường cho nghiên cứu hôm nay về máy tính lượng tử; hoặc sẽ trao cho nhà vật lý Alain Aspect của Pháp vì công trình nghiên cứu về rối lượng tử (quantum entanglement).
Giải Nobel vật lý đã trao 113 lần cho 213 nhà khoa học trong giai đoạn 1901-2019, trong đó ông John Bardeen là nhà khoa học duy nhất được hai lần trao Nobel vật lý vào các năm 1956 và 1972.
Năm ngoái Nobel vật lý được trao cho ba nhà khoa học James Peebles, Michel Mayor và Didier Queloz "vì sự đóng góp cho hiểu biết của chúng ta về sự tiến hóa của vũ trụ và vị trí của Trái đất trong thiên hà".
Theo Hãng tin AFP, các trường đại học Mỹ chiếm vị thế áp đảo trong số các tổ chức, đơn vị học thuật có người đoạt giải Nobel khoa học.
Kể từ khi có các giải Nobel vật lý, hóa học và y học từ năm 1901, kinh tế từ năm 1969, theo trang web của giải thưởng Nobel (Nobelprize.org), có tới 703 nhà nghiên cứu đã được tôn vinh trong tổng cộng 441 công trình.
Số nhà khoa học người Mỹ đoạt giải Nobel hiện vẫn chiếm tỉ lệ lớn nhất với 248 người (35%) sinh tại Mỹ.
Đó là nhìn về phương diện cá nhân các nhà khoa học. Còn khi nhìn vào số trường đại học Mỹ có người đoạt giải Nobel, tỉ lệ còn lớn hơn nữa: 57% giải thưởng Nobel (251/441 giải) đã được trao cho các nhà nghiên cứu có liên quan tới một ĐH Mỹ tại thời điểm trao giải.
"Giải thưởng năm nay dành cho việc viết lại bộ mã của sự sống", ông Goran K. Hansson, tổng thư ký Viện hàn lâm Khoa học Hoàng gia Thụy Điển, phát biểu khi vinh danh các nhà khoa học hôm 7-10.
Cả 2 nữ tiến sĩ đều là người khám phá ra Crispr-Cas9, một công cụ chỉnh sửa gen cho phép các nhà nghiên cứu thay đổi ADN của động vật, cây cối và vi sinh vật với độ chính xác cao."
Công nghệ này đã tạo ra ảnh hưởng tiên phong trong các ngành khoa học nghiên cứu về cuộc sống, đóng góp cho các phương pháp điều trị ung thư mới và có thể biến giấc mơ chữa trị các căn bệnh di truyền thành hiện thực", ủy ban công bố giải Nobel nhận định.
Bà Emmanuelle Charpentier, 52 tuổi, là tiến sĩ và chuyên gia nghiên cứu người Pháp làm việc trong ngành vi sinh, di truyền và hóa sinh. Kể từ năm 2015, bà đã trở thành giám đốc của Viện Sinh học nhiễm trùng Max Planck tại Berlin, Đức. Năm 2018, bà đã thành lập một viện nghiên cứu độc lập - Đơn vị Max Planck chuyên nghiên cứu về mầm bệnh.
Bà Jennifer Anne Doudna, 56 tuổi, là một nhà nghiên cứu sinh hóa người Mỹ được biết đến nhờ vai trò dẫn đầu trong công nghệ chỉnh sửa gen (CRISPR). Bà là giáo sư đầu ngành tại Trung tâm khoa học y tế và sinh học Li Ka Shing của ĐH California, Berkeley, Mỹ.
Tiếp theo, giải Nobel văn học 2020 sẽ được công bố vào ngày 8-10 tại Thụy Điển, trong khi giải Nobel hòa bình sẽ được công bố một ngày sau đó ở Na Uy.
Năm 2019, các nhà khoa học John B. Goodenough, M. Stanley Whittingham và Akira Yoshino đến từ Mỹ, Anh và Nhật Bản đã được vinh danh nhờ công trình phát triển pin lithium-ion.
Pin lithium-ion đã cách mạng hóa cuộc sống hiện đại và được sử dụng trong mọi thứ, từ điện thoại di động, laptop đến xe điện. Các nhà khoa học đoạt giải đã đặt nền tảng cho một xã hội không dây, không nhiên liệu hóa thạch.
TTO - Trong diễn từ về chủ nhân Nobel văn chương 2020 Louise Glück, ông Anders Olsson - chủ tịch Ủy ban Nobel - đã nói về bà, người viết nên thứ thi ca mơ màng, gợi lên những ký ức và những hành trình...
Thi sĩ người Mỹ Louise Glück sinh năm 1943 ở New York và hiện sống ở Cambridge, Massachusetts. Ngoài sáng tác, bà còn là giáo sư Anh ngữ ở Đại học Yale, New Haven, Connecticut.
Tác phẩm đầu tay của bà in năm 1968, Firstborn (tạm dịch: Khởi sinh), và bà nhanh chóng trở thành một trong những nhà thơ lớn nhất của văn chương Mỹ đương đại. Bà từng được trao một số giải thưởng uy tín, bao gồm giải Pulitzer (1993) và giải Sách quốc gia Hoa Kỳ (2014).
Louise Glück đã xuất bản 12 tuyển tập thơ và một số tuyển tập phê bình thơ. Tất cả đều có đặc điểm là niềm khát khao sự sáng rõ. Thời thơ ấu và cuộc sống gia đình, mối quan hệ gần gũi với cha mẹ và anh chị em là một chủ đề trung tâm của bà.
Trong thơ bà, bản ngã lắng nghe những gì còn lại từ những giấc mơ và ảo mộng của nó, và không có ai cứng cỏi như bà khi đối mặt với những ảo ảnh của bản ngã ấy. Nhưng ngay cả khi Glück không bao giờ chối bỏ tầm quan trọng của cuộc tự truyện về mình, khó thể coi bà là một nhà thơ tự bạch.
Glück tìm kiếm sự phổ quát, và trong hành trình đấy bà lấy cảm hứng từ những huyền truyện và môtip kinh điển, hiện hữu trong hầu hết tác phẩm của bà.
Tiếng nói của Dido [nữ hoàng Carthage cổ đại - nay là Tunisia, bị người hùng thành Trojan Aeneas ruồng bỏ], Persephone [con gái của thần Zeus và nữ thần nông nghiệp Demeter, bị thần địa ngục Hades bắt cóc về làm vợ] và Eurydice [vợ của nhạc công và thi sĩ huyền thoại Orpheus, người tìm cách đưa cô trở về dương gian từ địa phủ] - những kẻ bị ruồng bỏ, bị trừng phạt, bị bội phản - là những chiếc mặt nạ cho một bản ngã đang đổi thay, cũng mang tính cá nhân nhiều như tính phổ quát.
Với những tuyển tập như The Triumph of Achilles (Khúc khải hoàn của Achilles, 1985) và Ararat (1990), Glück đã tìm được độc giả ở Hoa Kỳ và nước ngoài. Trong Ararat, ba đặc điểm hợp nhất để rồi sau này tái hiện trong sáng tác của bà: chủ đề về đời sống gia đình, trí khôn giản dị và một cảm nhận bố cục hài hòa cho tổng thể cuốn sách.
Bằng những bài thơ ấy, Glück cũng đã chứng minh rằng ta hoàn toàn có thể biến cách diễn đạt bình thường trở thành thi ca. Âm điệu tưởng chừng thật tự nhiên ấy thật đáng kinh ngạc.
Chúng ta bắt gặp những hình ảnh thẳng thừng gần như tàn bạo về những mối quan hệ đớn đau trong gia đình. Đấy là những lời thành thật và không khoan nhượng, chẳng cần chi sơn thơ vẽ phú.















Những gì Glück trích dẫn trong các tiểu luận phê bình thơ của bà cũng nói lên rất nhiều về thi ca của bà: giọng thơ khẩn trương của Eliot, nghệ thuật lắng nghe nội tâm của Keats hay sự im lặng tự nguyện của George Oppen.
Nhưng với sự khốc liệt và cương quyết không chịu chấp nhận những tín điều đức tin đơn giản, hơn ai hết, bà thật giống Emily Dickinson.
Louise Glück không chỉ bị thu hút bởi những lầm lẫn và tình trạng thay đổi liên tục của cuộc đời, bà còn là nhà thơ của sự đổi thay và tái sinh cực đoan, khi bước nhảy vọt về phía trước xuất phát từ cảm nhận mất mát sâu sắc.
Trong tuyển tập được ca ngợi nhiều của bà, The Wild Iris (Diên vĩ dại, 1992), tác phẩm giúp bà được trao giải Pulitzer, bà đã mô tả sự sống trở lại diệu kỳ sau mùa đông trong bài thơ Snowdrops (Những giọt tuyết):
I did not expect to survive,
earth suppressing me. I didn’t expect
to waken again, to feel
in damp earth my body
able to respond again, remembering
after so long how to open again
in the cold light
of earliest spring –
afraid, yes, but among you again
crying yes risk joy
in the raw wind of the new world.
Tôi chẳng trông chờ được sống sót,
mặt đất nén chặt thân tôi. Tôi chẳng trông chờ
lại tỉnh giấc, để cảm thấy
trong đất ẩm cơ thể tôi,
rồi lại biết trả lời, sau biết bao lâu
vẫn nhớ, lại hồi sinh
trong ánh sáng giá lạnh
của buổi lập xuân thứ nhất -
ừ thì sợ hãi, nhưng lại là tôi
ừ thì than khóc, nhưng cả niềm vui
trong trận gió giao mùa của đất trời ngày mới.
Cũng phải nói thêm rằng khoảnh khắc thay đổi quyết định thường cũng được đánh dấu bởi tiếng cười hài hước và khôn ngoan.
Tuyển tập Vita Nova (1999) kết lại với những dòng: "I thought my life was over and my heart was broken. / Then I moved to Cambridge" (Tôi nghĩ đời mình đã hết và con tim đã nát tan. / Rồi đây Cambridge tôi lại chuyển sang).
Tựa đề đấy nhại lại bài thơ kinh điển của Dante La Vita Nuova (Cuộc đời mới), vốn mừng vui cho cuộc đời mới trong hình dạng nàng thơ Beatrice. Còn Glück lại chúc tụng cho sự mất mát một tình yêu đã tan vỡ.
Averno (2006) là một tuyển tập bậc thầy, là sự diễn giải sâu sắc về huyền thoại nàng Persephone bị tử thần Hades bắt cóc xuống địa ngục.
Tựa đề đấy đặt theo tên miệng núi lửa ở phía tây thành phố Naples vốn được người La Mã cổ đại coi là đường vào âm ti. Một thành tựu ngoạn mục khác là tuyển tập mới nhất của bà, Faithful and Virtuous Night (Đêm thủy chung và đức hạnh, 2014), tác phẩm giúp Glück được trao giải Sách quốc gia.
Độc giả một lần nữa ngỡ ngàng bởi sự hiện diện của giọng nói và cách tiếp cận kiểu Glück với môtip cái chết bằng sự duyên dáng và nhẹ nhàng đáng khâm phục.
TTO - Sau nhiều đồn đoán, giải Nobel Hòa bình năm nay gây bất ngờ khi được trao cho Chương trình Lương thực Thế giới (The World Food Programme - WFP).
Theo đài CNN, Chương trình Lương thực Thế giới - chương trình viện trợ lương thực của Liên Hiệp Quốc, và là tổ chức nhân đạo lớn nhất thế giới giải quyết nạn đói - được trao giải Nobel Hòa bình vì "những nỗ lực chống lại nạn đói; những cống hiến cho hòa bình ở những khu vực tranh chấp và vì đã hành động để ngăn chặn việc sử dụng nạn đói như vũ khí của chiến tranh và xung đột".
Phát ngôn viên WFP Tomson Phiri nói giải Nobel Hòa bình là vinh dự và là "một khoảng khắc đáng tự hào" đối với tổ chức của LHQ.
"Một trong những nét đẹp của các hoạt động của WFP là chúng tôi không chỉ cung cấp lương thực cho hôm nay và ngày mai, chúng tôi còn trang bị cho mọi người kiến thức, phương tiện để nuôi sống bản thân cho mai sau", Phiri nói.
Tổ chức được thành lập năm 1961 có trụ sở ở Rome, Ý cho biết họ giúp khoảng 97 triệu người ở khoảng 88 quốc gia mỗi năm trong bối cảnh cứ 9 người trên thế giới thì có 1 người không đủ ăn. Năm ngoái WFP đã phân phối 15 tỉ suất ăn cho người dân ở 88 quốc gia.
Con số thống kê tuy lớn nhưng cũng chỉ là một phần nhỏ so với nhu cầu thực của người dân trên thế giới. Theo các chuyên gia, mặc dù đã đạt được nhiều tiến bộ trong ba thập kỷ qua, nhưng mục tiêu xóa sổ nạn đói vào năm 2030 của LHQ có thể sẽ không đạt được.
"Nhu cầu đoàn kết quốc tế và hợp tác đa phương là điều rõ ràng hơn bao giờ hết", chủ tịch Berit Reiss-Andersen của Ủy ban Nobel Na Uy phát biểu. "Với giải thưởng năm nay, Ủy ban Nobel Na Uy muốn thế giới hướng mắt về phía hàng triệu người đang phải chịu đựng hoặc đối mặt với hiểm họa của nạn đói".
Bằng việc vinh danh WFP với giải Nobel Hòa bình 2020, Ủy ban Nobel Na Uy gửi thông điệp tới các chính phủ trên thế giới, kêu gọi không cắt giảm đóng góp tài chính cho các tổ chức nhân đạo quốc tế.
"Đây cũng là lời kêu gọi cộng đồng quốc tế không cắt giảm đóng góp tài chính cho WFP. Theo suy nghĩ của tôi, đây là nghĩa vụ của các nước trên thế giới để đảm bảo mọi người không chết đói", chủ tịch Berit nói.
TTO - Giải Nobel Kinh tế 2020 đã về tay hai nhà kinh tế người Mỹ là Paul R. Milgrom và Robert B. Wilson với nghiên cứu “sáng tạo những công thức đấu giá mới”.
Các nhà kinh tế thắng giải năm nay đã nghiên cứu cách thị trường đấu giá hoạt động. Họ cũng sử dụng hiểu biết của mình để thiết kế các mô hình đấu giá mới cho các loại hàng hóa và dịch vụ khó bán theo cách cổ điển, ví dụ như sóng phát thanh.
Các thương gia, người mua và cơ quan thuế trên toàn thế giới đều hưởng lợi từ những đóng góp trên.
Vì mỗi người luôn muốn bán với giá cao hơn và mua với giá rẻ nhất, mọi vật hiện nay đều được qua tay với hình thức đấu giá. Không chỉ các vật dụng trong gia đình, đồ cổ hay tác phẩm nghệ thuật, cả chứng khoán, khoáng sản và năng lượng đều có thể mua bán bằng hình thức này.
Sử dụng lý thuyết đấu giá, các nhà nghiên cứu cố gắng tìm hiểu hệ quả từ các quy định khác nhau về ngã giá và chốt giá.
Các chuyên gia đoạt giải Nobel Kinh tế năm nay đã bắt đầu với một lý thuyết nền tảng, sau đó sử dụng các kết quả thu được vào ứng dụng thực tiễn, giúp nó lan tỏa toàn thế giới. Các phát hiện của họ đã đem lại lợi ích lớn cho xã hội.
Chủ tịch Ủy ban giải Nobel Kinh tế Peter Fredriksson
Nhà kinh tế Robert Wilson đã phát triển lý tuyết đấu giá đối với các vật dụng có giá trị chung (common value), tức các giá trị không được xác định từ đầu nhưng được tất cả mọi người đồng ý sau khi chốt.
Điển hình, giá hợp đồng tương lai của sóng phát thanh hoặc sản lượng quặng tại một địa điểm cụ thể. Ông Wilson cho thấy các nhà đấu giá thường ra giá thấp hơn so với giá trị chung họ ước lượng.
Khi xã hội dần phát triển, nhiều loại hàng hóa phức tạp hơn ra đời, chẳng hạn như vị trí trong bãi đậu máy bay.
Để đáp ứng nhu cầu định giá cho chúng, các nhà kinh tế Paul R. Milgrom và Robert B. Wilson đã sáng tạo ra hình thức đấu giá mới, trong đó bán đấu giá đồng thời nhiều hàng hóa có liên quan với nhau.
Phương pháp này dựa trên lý thuyết rằng người bán được động viên bởi các lợi ích xã hội lớn hơn doanh thu tối đa.
Vào năm 1994, Mỹ là chính quyền đầu tiên sử dụng phương pháp trên đế bán sóng phát thanh cho các nhà mạng viễn thông. Kể từ đó, nhiều quốc gia khác đã học theo cách làm này.
Giải Nobel kinh tế có tên chính thức là Giải thưởng của Ngân hàng Thụy Điển cho khoa học kinh tế để tưởng nhớ Nobel.
Giải Nobel Kinh tế thường được trao cho các nghiên cứu về bất bình đẳng, tâm lý học trong kinh tế, các mô hình đấu giá, sức khỏe nền kinh tế hay thị trường lao động. Đây là giải thưởng cuối cùng trong mùa giải Nobel năm nay.
Năm 2019, giải Nobel Kinh tế đã được trao cho ba kinh tế gia vì những nghiên cứu nhằm cải thiện tình trạng nghèo đói toàn cầu.
Share:

Trị viêm đại tràng

Ai có bệnh nên dùng, bài này cũng là kinh nghiệm của già làng, nay thấy bạn này chia sẻ TL đưa luôn! *** “Người Trung Quốc nói người việt na...