Tổng số lượt xem trang

Hiển thị các bài đăng có nhãn Lịch Sử. Hiển thị tất cả bài đăng
Hiển thị các bài đăng có nhãn Lịch Sử. Hiển thị tất cả bài đăng

Thứ Hai, 1 tháng 9, 2025

ĐỨC PHẬT VÀ MÍT



Cây mít có tên Hán là Ba la mật, nghe y hệt như từ “Ba la mật” hay “Ba la mật đa” trong kinh Phật, có nghĩa là qua bờ bên kia, tức là “giác ngộ”, như từ “Bát Nhã Ba la mật đa” trong Bát Nhã Tâm Kinh. Có lẽ chính vì vậy mà người ta hay trồng mít trong sân chùa. Có giả thuyết rằng “mít” là từ Việt cổ blái mít (trái mít), du nhập sang TQ và biến thành Ba ma mật. Rất thú vị, và có lý hơn là lý giải rằng âm ba-la-mật-đa là người Trung Hoa lấy từ tiếng Phạn có nghĩa là qua bến bờ giác ngộ.
Sách Bản thảo Cương mục 本草綱目của Lý Thời Trân (LiShiZhen 李時珍1518 -1593, một danh y thời Minh) cũng ghi rõ ràng Ba La Mật vốn sinh sản ở đất Giao Chỉ tức miền Bắc Việt Nam, nguyên văn: 時珍曰︰波羅蜜生交趾、南邦諸國,今嶺南、滇南亦有之– Lý Thời Trân viết: Ba la mật sinh Giao Chỉ, nam bang chư quốc; kim Lĩnh Nam, Điền Nam diệc hữu chi.(Cây mít sinh sản ở Giao Chỉ và các nước phương nam, nay vùng Lĩnh Nam và Điền Nam cũng có).
Đó là lý do tại sao tạc tượng Phật hay dùng cây mít, mít được trồng nhiều trong chùa xưa và tất nhiên trái Mít là cúng Phật là rất hợp chứ không có gì là khó coi cả.
ST

Thứ Ba, 26 tháng 8, 2025

Tượng vua Lý Thái Tổ ở Hàn Quốc



HÀN QUỐC DỰNG TƯỢNG VUA LÝ THÁI TỔ Ở HUYỆN BONGHWA, TỈNH GYEONGBUK
Bức tượng bằng đồng cao 5.5 mét, được huyện Bonghwa đầu tư kinh phí 300 triệu won để chế tác. Đặc biệt, bức tượng được tạo hình giống hệt với pho tượng Vua Lý Thái Tổ cao 11 mét đang được đặt tại thủ đô Hà Nội, Việt Nam.
Lý do huyện Bonghwa dựng tượng Vua Lý Thái Tổ xuất phát từ một mối liên kết lịch sử sâu sắc và đầy ý nghĩa. Làng Changpyeong-ri chính là nơi an cư của dòng họ Lý Hoa Sơn (Hwasan Lee), một dòng họ có nguồn gốc là hậu duệ Vua Lý Thái Tổ. Theo lịch sử ghi lại, Hoàng tử Lý Long Tường, cháu đời thứ sáu của Vua Lý Thái Tổ, đã phải rời khỏi Việt Nam do biến loạn và quy hóa tại vương triều Goryeo (Cao Ly). Triều đình Goryeo khi đó đã ban cho ông họ Lý Hoa Sơn, ông chọn làng Changpyeong-ri ở Bonghwa làm nơi an cư lạc nghiệp. Người con trai thứ hai của ông là Lý Trường Phát sau này đã tham gia nghĩa quân trong cuộc chiến tranh Imjin (Nhật Bản xâm lược Triều Tiên), anh dũng hy sinh khi chiến đấu chống lại quân Nhật. Để tưởng nhớ tinh thần yêu nước, một công trình mang tên Trung Hiếu Đường (Chunghyodang) đã được dựng lên tại Changpyeong-ri. Cho đến ngày nay, vẫn còn 7 gia đình thuộc dòng họ Lý Hoa Sơn sinh sống tại ngôi làng này.
ST

Thứ Ba, 5 tháng 8, 2025

VÌ SAO TẢ QUÂN LÊ VĂN DUYỆT XUẤT THÂN THÁI GIÁM . NHƯNG KHI MẤT, LẠI NẰM CÙNG BÀ PHU NHÂN?





Từ lâu người Sài Gòn, Gia Định, Chợ Lớn xem Tả Quân Lê Văn Duyệt là một vị thần có hơi hướng tâm linh dân gian, đây là một hiện tượng độc nhứt vô nhị!
Các dịp Lễ Tết số lượng người đi Lăng Ông đông gấp nhiều lần đình chùa, ngày thường khách vẫn nườm nượp nhang khói không lúc nào nguội lạnh.
Ngày Tết Nguyên Đán đầu năm trong tiết tháng Giêng se lạnh, khi mà Trời Đất giao hòa cùng lòng người thì bá tánh thích ghé Lăng Tả Quân đặng cầu nguyện cho một năm an bình, tài lộc.
Sài Gòn còn có mộ và đền thờ của Võ Tánh, Trương Tấn Bửu, Võ Di Nguy nhưng đông nhứt vẫn là Lăng Ông Bà Chiểu. Gần đó có đền thờ Trần Hưng Đạo nhưng dân Nam Kỳ ít khi lui tới.
Dân gian coi ông như thần và tế lễ ông tại lăng mang nghi thức thờ thần. Nghi lễ cúng kiếng tại lăng pha trộn giữa nghi lễ thờ cúng ông bà, tổ tiên của người Nam Kỳ với nghi lễ cúng thần.
Người Việt cúng trái cây, bánh và nhang đèn. Người Hoa cúng heo quay theo tục của họ.
Vì ngày xưa Tổng Trấn làm cho Sài Gòn, Nam Kỳ giàu mạnh nên nhiều người Việt lẫn Hoa coi ông là Phúc Thần, thành ra cúng tế ông là cầu xin, đó là lẽ thường xuất phát từ tâm tưởng của người dân.
Xin bắt đầu vài dòng về những ngày xưa...
Năm 1760 ,ông Lê Văn Hiếu cùng vợ chồng con trai của ông là ông bà Lê Văn Toại rời Quảng Ngãi theo ghe bầu vô Nam Kỳ và tới vùng Mỹ Tho, sau định cư tại Vàm Trà Lọt.
Ông Lê Văn Toại và bà Nguyễn Thị Lập sanh ra con trai Lê Văn Duyệt ở đây.
Ông Lê Văn Toại sanh được 4 con trai, ông Duyệt là con trưởng.
Tương truyền, từ năm 14, 15 tuổi ông Lê Văn Duyệt thường tự than: “Sanh ra ở đời loạn mà không dựng cờ nổi trống làm đại tướng, để công danh trên thẻ bạc, thì chẳng đáng làm mặt trai!”.
Năm 1765, gia đình này dời nhà qua bên Long Hưng sanh sống.
Năm 1780, trong đêm mưa gió, Tây Sơn truy sát chúa Nguyễn Phước Ánh đã chạy từ Gia Định về Mỹ Tho tới vàm Ông Hổ và ghe chèo bị mắc cạn. Ông Lê Văn Toại chèo ghe ra cứu chúa Nguyễn và tùy tùng đem về nhà mình trú tạm.
Sau thấy ông Duyệt lanh lẹ, cũng khỏe mạnh, chúa trả ơn gia đình họ Lê bằng cách nhận con trai họ là Lê Văn Duyệt cho đi theo cùng đặng làm thái giám nội cung.
Sử Nguyễn chép Lê Văn Duyệt tuổi thơ không chịu học hành mà chỉ thích bắt chim, đánh cá, đá gà và tụ tập các trẻ trong làng, chia phe chơi trò tập trận.
Đại Nam liệt truyện cho biết “ông mình thể ngắn nhỏ, tinh hãn, có tài lực”, và mắc bệnh “ẩn cung hình” từ lúc mới sanh.
Ẩn cung hình tức bộ phận sanh dục quá nhỏ và hình như con tằm không thể sanh con được.
Nhiều nhà sử học nói ông không có bộ phận sanh dục nam, có người nói đó là tật “ẩn tinh hoàn”.
Chữ “ái nam ái nữ” là chữ không chính xác với một nhân vật lịch sử.
Trích “Nhật ký hành trình” của John White, London 1824, tr. 236:
“Tổng Trấn Sài Gòn nghe lời người ta nói là một hoạn quan. Trông hình dáng của ông đã chứng minh khá rõ tiếng đồn này. Ông ấy khoảng 50 tuổi, có cái nhìn thông minh. Ông có vẻ hoạt động mạnh về thể chất & tinh thần.
Gương mặt tròn, nhẳn , không râu. Riêng giọng nói rất chát tai, giống tiếng đàn bà. Còn y phục của ông ta giản dị giống như y phục của người nghèo ..”
Theo mô tả thì ông không có râu, giọng hơi chát, tức là âm hơi bổng, nội tiết tố nam testosterone hơi bị ít.
Từ thái giám, ông được làm cai đội nội cung, rồi tham gia đánh trận.
Dũng cảm và quyết đoán, ông đánh trăm trận trăm thắng. Nổi danh trận Thị Nại Quy Nhơn.
Tả Quân Tổng Trấn Lê Văn Duyệt gan dạ, lập nhiều chiến công vào bậc nhứt khai quốc công thần thời Gia Long.
Ông từng giữ chức Tổng Trấn Gia Định Thành 2 lần: từ 1812 đến 1815 (triều vua Gia Long) và từ 1820 đến 1832 (đời vua Minh Mạng).
Tả Quân lúc uy quyền, tuy chữ ít nhưng lòng người ai cũng kính phục, gọi ông là Ông Lớn Thượng, là Lê Thượng Công.
Ông là người giỏi quân sự lẫn chánh trị, ngoại giao, là một vị quan nghiêm khắc, thanh liêm.
Dù quyền hành lớn, ông không hề hiếp đáp kẻ dưới, hoặc tìm mọi cách để tư túi riêng. lính của ông có kỷ luật, không hề phá phách, cướp bóc dân.
Vì bất đồng cách trị quốc với vua Minh Mạng nên ông vua này để bụng với ông Duyệt nhưng do Lê Văn Duyệt có quyền uy lớn trong triều đình nên vua Minh Mạng không làm gì được.
Nên hiểu ông Duyệt là thủ lãnh thế lực Nam Kỳ thời đó, phe Nam Kỳ góp phần cho nhà Nguyễn trung hưng, Nam Kỳ giàu có, nạp thuế, góp lúa gạo nhiều nhứt cho Huế.
Tả quân Lê Văn Duyệt được vua Gia Long tin tưởng giao như như phó vương Nam Kỳ tự trị, vua Gia Long nhờ dân Nam Kỳ mà trung hưng nhà Nguyễn, sống mấy chục năm ở Nam Kỳ nên vua hiểu bụng dạ người Nam Kỳ, cái tánh hảo sảng nhưng cũng rất tự do, Nam Kỳ tuy nhìn là dễ tánh nhưng thực sự rất khó, nguyên tắc rất chặt.
Thời của ông Tả Quân cai quản thì đất Gia Định – Nam Kỳ tự do kinh tế thị trường, doanh nhân ngoại quốc Tây – Tàu bán buôn, truyền giáo tự do.
Thời Minh Mạng cương vực lãnh thổ Đại Nam bao trùm Lào và Cam Bốt, công của phe Nam Kỳ rất lớn vì góp của cải, lương thực vào chuyện đó.
Sanh thời vua Minh Mạng không sợ ai, ông nắm quyền tột đỉnh ở Huế, nhưng lại cảm thấy phe Nam Kỳ có thể uy hiếp triều đình.
Lịch sử tréo ngoe ở chỗ khi thạnh quá thì sẽ suy. Chánh trị mà, đó là quyền lợi của Nam Kỳ và Huế đã có sự mâu thuẩn nhau.
Vua Gia Long vì được người Tàu Minh Hương giúp trung hưng nhà Nguyễn nên ông có chánh sách “nhẹ tay”, Minh Hương được miễn lao dịch và miễn thuế thân.
Năm 1824, Minh Mạng buộc tất cả người Tàu di cư phải đóng thuế thân kể cả người Minh Hương, Lê Văn Duyệt phản đối.
Lê Văn Duyệt cũng chống lịnh cấm đạo Thiên Chúa, chống chủ trương trọng nông ức thương của Minh Mạng. Minh Mạng chủ trương triệt luôn quyền tự trị của người Chàm ở trấn Thuận Thành, ông Duyệt cũng chống.
Khi ông Duyệt còn sống,biết lão thần có uy tín lớn nên vua làm ngơ, khi ông Duyệt vừa qua đời thì vua Minh Mạng ra tay.
Chờ sau khi Tả Quân Lê Văn Duyệt mất vào năm 1832, việc đầu tiên của vua Minh Mạng là phá hết thế lực, phe cánh của Tả Quân ở Gia Định và đặt quan cai trị trực tiếp.
Vua Minh Mạng triệt phiên bớt thế lực của Tả Quân, bỏ quy chế tự trị của Gia Định trấn, lập tỉnh trực thuộc Huế, áp dụng chánh sách thắt chặt kinh tế ở Nam Kỳ nên đã bị Nam Kỳ phản ứng chống đối.
Những cái này ông Duyệt còn sống lại cho tự do.
Quan từ Huế vô, việc đầu tiên là khám tư dinh và truy xét tài sản của Lê Văn Duyệt, sau đó có những cử chỉ bất kính với người vừa mất.
Tổng đốc Nguyễn Văn Quế, bố chánh Bạch Xuân Nguyên và án sát Nguyễn Chương Đạt sai dựng lên một vụ án xử Lê Văn Duyệt.
Người Minh Hương, người Công giáo, điền chủ, quan lại Nam Kỳ bất bình.
Đêm 18 tháng 5 năm Quý Tỵ (1833), con nuôi Tả Quân là Lê Văn Khôi cùng 27 lính hồi lương đột nhập dinh Bố Chánh giết cả nhà Bạch Xuân Nguyên.
Quan Tổng đốc Nguyễn Văn Quế cũng bị giết
Tới ngày 7 tháng 6 năm 1833, quân binh biến chiếm cả Nam Kỳ lục tỉnh một cách dễ dàng, Huế rúng động.
Dân Nam Kỳ ủng hộ vang trời.
Phe Lê Văn Khôi bao gồm: Dân điền chủ Nam Kỳ, Cố đạo, giáo dân Công giáo, người Tàu bốn bang – kể cả con cháu Mạc Cửu ở Hà Tiên, con cháu Thoại Ngọc Hầu, người Miên (Con trai ông Nguyễn Văn Tồn ở Trà Ôn), Tiểu vương Chàm ở trấn Thuận Thành (Bình Thuận) một số người dân tộc ở Tây Nguyên cũng có dính líu.
Chúng ta nên nhìn kỹ, cuộc nổi loạn Lê Văn Khôi bắt nguồn từ chính sách triệt phiên, cấm đạo và bế quan tỏa cảng của vua Minh Mạng. ở Nam Kỳ, nó là mâu thuẩn chánh trị giữa Nam Kỳ mà Tả Quân là thủ lãnh và triều đình Huế mà vua Minh Mạng là đại diện.
Cuộc binh biến thách thức vua Minh Mạng trong hơn 2 năm từ 1833 tới 1835
Và trong thế bị ép, Lê Văn Khôi làm binh biến, vua Minh Mạng sau đó dẹp được, nhưng Huế cũng một phen xấc bấc xang bang và người ta đồn trong thời gian đó vua Minh Mạng sợ Lê Văn Khôi hành quân thốc ra đánh úp Huế nên đem vàng bạc chôn rất nhiều nơi ở Huế.
Lê Văn Khôi không đánh rốc ra Huế là một sai lầm, để triều đình có thì giờ đem quân vào Nam, trước tiên là khủng bố giới điền chủ nuôi Lê Văn Khôi.
Vụ binh biến thành Phiên An của Lê Văn Khôi rốt cuộc bị triều đình dẹp yên.
Cả thảy 1.831 người trong thành đều bị chém đầu và vùi xác chung trong một hố ở Đồng Tập Trận mà vua Minh Mạng gọi là Mả Ngụy – Mả Biền Tru.
“Chiều giông Mả ngụy cũng giông
Hồn lên lớp lớp bềnh bồng như mây
Sống thời gươm bén cầm tay
Chết thời một sợi lông mày cũng buông
Thương thay Mả ngụy mưa tuôn…”
Trong đó có 800 người Tàu Nam Kỳ. Sử chép có một người tên “Bốn Bang” trước khi chết để lại bài thơ lục bát dài 308 câu kể lại sự kiện gọi là “Bốn Bang thư”, bài thơ này là của ông Lưu Hằng Tín.
Xin nhớ, Bốn Bang không phải tên người nào riêng lẻ, là bốn bang hội của người Tàu gồm Quảng Đông, Phúc Kiến, Triều Châu và Hải Nam. Tức là hiểu rằng có 4 bang hội Tàu hổ trợ tài chánh và nhơn lực cho Lê Văn Khôi.
Triều đình áp giải về Huế xét xử và tử hình lăng trì, bêu đầu 8 người, cầm đầu -trong đó có Lê Văn Cù – con trai 7 tuổi của Lê Văn Khôi (Khôi đã chết trước đó), một giáo sĩ Pháp tên Marchand (Cố Du), hai người Tàu tên Mạch Tấn Giai (người Tiều) và con trai nhỏ của ông này, Lưu Hằng Tín (người Quảng). Sau khi bêu đầu thì xác được đưa trả về Nam chôn.
Sai lầm của Lê Văn Khôi khi đi cầu viện quân Xiêm vì thế tính chánh danh đã không còn được sự ủng hộ của bá tánh Nam Kỳ.
Sau khi chiếm thành Phiên An, chém 1.831 người chôn ở mả ngụy – mả biền tru. Vua Minh Mạng cho phá thành xây laị thành nhỏ.
Vua Minh Mạng đã san bằng mả của ông Duyệt và lôi nguồn gốc thái giám của ông Duyệt ra miệt thị. Ngay tại mả Tả Quân vua Minh Mạng cho đóng tấm bia đề chữ “Quyền yêm Lê Văn Duyệt phục pháp xứ” (Đây chỗ tên hoạn quan lộng quyền Lê Văn Duyệt chịu phép nước”.
Đến lúc Tả quân Lê Văn Duyệt mất đi, vua Minh Mạng mới tuyên án tội của Lê Văn Duyệt trên ngôi mộ của ông.
Vì bị oan khuất,hạ nhục mà dân lại còn thương nhiều hơn, từ tình cảm tới tâm linh, thành linh thần Gia .
Lăng Ông linh thiêng trong lòng dân Nam Kỳ, người Tàu Chợ Lớn kêu là Lăng của phò mã gia gia, nghĩa là lăng cha ông phò mã (Cha thừa kế của phò mã Lê Văn Yên – ông này là cháu ông Duyệt, con ông em Lê Văn Phong)
Tương truyền tướng tinh của Tả Quân là con cọp, khi còn sống lúc ngủ thì ban đêm có người thấy có bóng dáng con cọp hiện ra chợp chờn ở bên cạnh.
Vì Tả Quân có danh vọng với Nam Kỳ, cho tự do thông thương, kinh tế thị trường, tự do truyền đạo, có tầm nhìn của một người Nam Kỳ mở, lòng dạ thoáng, tầm nhìn rộng đã bị hạ nhục ngay cái mả – chổ chôn nấm xương tàn của mình.
Suốt mấy chục năm khu mả của ông hoang vắng không ai dám đi qua, truyền rằng đêm xuống nghe quân reo ngựa hí, có ma khóc lóc ở.
Dân Gia Định cả Việt lẫn Tàu đều đau thương.
Tả Quân Lê Văn Duyệt càng bị hạ nhục, bị xử khi đã chết thì cái tiếng linh của ông càng lan rộng trong dân gian.
Dân kể giai thoại rằng, vua Thành Thái dịp Tết nọ lơn tơn đi chơi Lăng Ông, có ai đưa cho cựu hoàng cây nhang, ông nói rằng: “Nó (Ông Duyệt) phải lạy tao chứ tao không lạy nó”.
Có chuyện truyền rằng vua Thành Thái vào Nam Kỳ đi ngang Lăng Ông thì xe hơi bị chết máy, Thành Thái phải sai bỏ cái xiềng trên mộ ông mới nổ máy được (Nhưng thực tế cái xiềng ấy đã được bỏ đi từ đầu đời Thiệu Trị).
Lăng Ông linh thiêng trong lòng dân Nam Kỳ, người Tàu Chợ Lớn kêu là Lăng của phò mã gia gia, nghĩa là lăng cha ông phò mã.
Kế bên mả vợ chồng Tả Quân người dân xưa dựng lên 上公廟 “Thượng Công miếu” từ 1841, không ngày nào là không có người đến cúng kiếng bánh trái,nhang đèn.
Đó là lòng dân, dân thương nên dân cúng.
Còn vì sao xuất thân là hoạn quan mà Tả Quân lại có Phu Nhân và lăng ngày nay có hai ngôi mộ song táng kế bên?
Tả Quân phu nhân tên là Đỗ Thị Phận.
Đọc “Sài Gòn năm xưa” ông Vương Hồng Sển chép rằng :
“Nghe nói lại, lối năm 1885, thì chợ cũ ở vào xóm nhà dưỡng đường Chợ Rẫy, nay chỉ còn trơ lại một danh trơn và đây có lẽ là một chợ hồi đời trước, đến trào Pháp lại dẹp đi. Trước dưỡng đường Chợ Rẫy, xưa kia có một ngôi mộ cổ bằng vôi, kiểu chạm trổ rất khéo, tương truyền là của một ông hầu tứớc họ Đỗ (Tombeau du marquis de Đỗ).
Trường Viễn Đông Bác cổ đã xin liệt kê làm cổ tích,nhưng chủ đất là người có thế lực, một hai xin phá để cất phố xá và viên Toàn quyền Decoux ưng lời, thiệt là rất tiếc cho một cổ tích không có người ủng hộ.
Mộ phần họ Đỗ này có dính líu với Tả quân phu nhơn, tên tộc là Đỗ Thị Phẫn. Tương truyền khi Lê Tả quân bị tội, phu nhơn về ngụ nơi xóm Chợ Rẫy, trong một ngôi chùa Phật, do bà mẹ năm xưa đứng tạo lập tục danh là Chùa Bà Dội.” (Hết trích).
Tức là khúc Chợ Rẫy là đất của bên ngoại nhà bà Đỗ Thị Phận, chùa Bà Đội là chùa của má bà lập ra.
Chúng ta chỉ có một chi tiết mơ hồ về Tả Quân phu nhân Đỗ Thị Phận.
Vào năm 1900, bịnh viện Chợ Rẫy được xây dựng và lúc đó còn mả họ Đỗ, còn chùa Bà Dội là chùa nào tới nay chưa xác định được.
Tổng trấn Gia Định thành Lê Văn Duyệt vốn là thái giám,sanh ra có tật “ẩn cung” nhưng trưởng thành trong chiến trận.
Sử thần triều Nguyễn viết “Chư tướng thời trung hưng chỉ có Duyệt cùng Nguyễn Văn Trương đánh giặc không thua trận nào”.
Ông Tả Quân tánh rất nóng và có học vấn hạn chế.
Sau 1802 ông Lê Văn Duyệt là Đệ Nhứt Khai Quốc Công Thần của nhà Nguyễn, vua phong ông là Khâm Sai Chưởng Tả Quân Dinh Bình Tây Tướng Quân, tước Quận Công.
Sau đó vua Gia Long ban vợ cho Tả Quân Lê Văn Duyệt.
Sử không ghi dòng nào về bà vợ họ Đỗ này.
Trong truyện ngắn “Đức Tả Quân” của Phạm Hữu Hoàng có ghi là “Bấy giờ trong triều có nàng Đỗ Thị Phận, là ái nữ quan Thượng bảo khanh Đỗ Phiên. Đỗ Thị Phận dung nhan xinh đẹp, giỏi về y thuật, tính tình nghiêm nghị”.
Thượng bảo khanh thời Gia Long là quan trật Tòng tam phẩm. Tuy nhiên chưa tra ra ông Thượng bảo khanh Đỗ Phiên là ai.
Nhưng bà Đỗ Thị Phận này có lẽ cũng là con quan và vào cung làm cung nữ. Thời xưa bà Từ Cung Hoàng thái hậu Hoàng Thị Cúc mới vô cung cũng làm cung nữ hầu hạ đó thôi.
Nhà vua ban hôn cho Tả Quân với bà Đỗ Thị Phận, tức bà Đỗ này làm phu nhân Tả Quân, cả hai người phải chấp nhận.
Vua Gia Long đổi tên bà Đỗ từ Phận ra Phẫn.
Chữ 墳 phẫn có nghĩa cao lớn, đất nhô lên. Đỗ Thị Phận thành Đỗ Thị Phẫn,tên được vua ban cho luôn, quá vinh dự.
Trong “Đức Tả Quân”, Phạm Hữu Hoàn tả tâm trạng đêm hợp cẩn vợ chồng nghe rất có lý, chồng là thái giám, vợ cung nữ và họ rất tôn trọng nhau về lý trí. (Trích)
“Đỗ Thị Phẫn mặc áo tân nương, khăn đỏ rũ che mặt ngồi trên ghế đợi. Tả quân bước vào, tới ngồi ghế đối diện.
Tả quân lên tiếng, rành rọt:
– Nàng là nương tử vua ban. Nhưng ta không thể cùng nàng chăn gối. Mong nàng hiểu cho. Đây là phòng riêng của nàng, cần gì cứ nói với ta.
Lời vừa rồi của Tả quân làm Đỗ Thị Phẫn giảm bớt căng thẳng. Không ngờ Tả quân thẳng thắn, dứt khoát như vậy. Mọi thứ bỗng trở nên rõ ràng hơn. Nàng bớt lo âu như lúc bước vào dinh thự của Tả quân trong tiếng pháo nổ đón dâu. Lê Văn Duyệt gọi hai tỳ nữ vào căn dặn chăm lo cho nàng, rồi đi ra ngoài.
………
Trong cuộc sống hằng ngày, Lê Văn Duyệt không để Đỗ Thị Phẫn thiếu thốn điều gì. Những lễ hội cung đình, Tả quân đều đưa phu nhân đi dự. Việc hiếu nghĩa cả hai phía, Tả quân đều lo chu toàn. Mỗi khi có việc quân phải đi xa lâu ngày, Tả quân tin cậy căn dặn vợ quán xuyến việc nhà.
Đỗ Thị Phẫn quen dần với cuộc sống mới.
Càng gần gũi, nàng thấy Tả quân không như những gì mường tượng ban đầu.
Người chồng chưa bao giờ đồng tịch đồng sàng luôn cảm thông và hết sức tôn trọng nàng. Qua nhiều lần hàn huyên tâm sự, ít nhiều đã có sự gắn bó.” (Hết trích)
Thuyền theo lái, gái theo chồng.
Tả Quân phu nhân gắn bó với chồng mấy chục năm, bà là người hiền thục đoan chánh, lo từng chút cho chồng từ miếng ăn tới giấc ngủ, ông là người liêm khiết và sĩ diện.
Năm 1832, Cọp Gấm Đồng Nai Lê Văn Duyệt lìa đời khi đương chức Tổng Trấn Gia Định Thành tại tư dinh của ông ở khu dinh Độc Lập ngày nay.
Trần Bảo Định trong “Kệ kinh trong lòng người” viết lại giây phút vợ lìa chồng như sau:
” Ánh bạch lạp không đủ sáng để soi thủng bóng tối đêm cuối, phu nhân Đỗ Thị Phẫn quỳ bên giường bịnh lắng nghe lời trăn trối của chồng:
– Nếu, một mai ta đi về cõi khác, phu nhân quay lại xóm Rẫy xưa, nơi mẹ trước kia đã tạo lập ngôi chùa Phật, tục danh chùa Bà Dội mà nương náu…
Gió rít tường thành dữ dội, tiếng mưa át cả lời người sắp ra đi và những hạt mưa đêm không thấm thấu nổi những giọt nước mắt của phu nhân Tổng trấn Gia Định thành.
– Nàng đừng tiếc thương ta, bởi ta chỉ là kẻ yêm hoạn tầm thường… ta không thể… thiệt là, vô cùng có lỗi với phu nhân.
Minh Mạng đầu nuôi chí cả, óc thông minh, trái tim còn nóng hổi, chưa lạnh lùng… tuy bụng dạ có hẹp hòi đố kỵ…
Ta tin rằng, Minh Mạng sẽ trả thù ta, nhưng với phu nhân chắc là không. Bởi, Minh Mạng thừa biết ta với nàng chỉ là phu thê trên danh nghĩa… “
Tả Quân mất ngày 30 tháng 7 năm Mậu Thìn (nhằm ngày 15 tháng 8 năm 1832) hưởng thọ 69 tuổi.
Tả quân còn có hai cô hầu rất thương, bằng chứng ngày nay mé ngoài vòng thành Lăng Ông còn có mả hai cô hầu rất lớn.
Đêm 8/5/1833, Lê Văn Khôi làm binh biến chiếm thành Gia Định ly khai triều đình Huế trong 2 năm trời làm Huế một phen thất kinh.
Đại Nam Thực lục chép trước khi phát động binh biến, Lê Văn Khôi có tới bẩm với bà Đỗ Thị Phẫn, bà đã khóc ròng nói “Các ngươi làm thế thì chắc chắn Thượng công sẽ bị đào mả thôi”.
Ngày 16 tháng 7 năm 1835, quân triều đình Huế chia làm 8 mũi, tấn công ồ ạt vào thành Gia Định, vụ binh biến bị dẹp.
Vua Minh Mạng làm án xử Lê Văn Duyệt nhưng chừa Đỗ phu nhân ra vì biết bà là vợ danh phận và không có con nối dõi.
Đỗ phu nhân về Chợ Rẫy sống ẩn dật, nhịn nhục ở chùa Bà Dội tới chết.
Khi bà mất người nhà vạch rào ban đêm đem quan tài bà chôn kế bên Tả Quân ở trong Lăng Ông Bà Chiểu, lúc này mả bị đục bia, san núm, xiềng xích và nhiều lời đồn về ban đêm ma quỷ gào thét vang trời. Người vợ đồng cam cùng chịu hình phạt với chồng.
Ngày nay đi lăng Ông thấy mả Tả Quân và Phu Nhân họ Đỗ nằm song song nhau, biết hai ông bà chung thủy và sắt son với nhau.
“Đạo nào bằng đạo phu thê
Tay ấp, má kề, sanh tử có nhau”
Tình nghĩa vợ chồng từ trong cách sống và sự tôn trọng nhau
Người xưa có lòng sáng tợ mặt trời
Kết luận:
Chưa có ông tướng nào có được vị trí tâm linh như Tả Quân Lê Văn Duyệt.
Chưa vua nào phong Thần cho ông, nhưng dân coi ông là Thần, coi ông như Phúc Thần của Sài Gòn, kêu nơi gửi nắm xương tàn của ông là “Lăng Ông”
Sống làm tướng bách chiến bách thắng, sống làm quan thanh liêm lo cho dân, chết làm Thần của dân.
Có gì hạnh phúc hơn!
Mang lễ vật cúng không phải là mê tín dị đoan, tục này có từ đời xưa với lòng tin “có kiêng có lành”. Người Việt thờ tổ tiên, thường vẫn làm mâm cơm cúng giỗ ông bà, thì mang lễ vật cúng Tả Quân cũng như cúng ông bà vậy thôi.
Cúng Lăng Ông hay có xây chầu hát bội, đó là nét văn hóa đặc trưng Nam Kỳ xưa cần giữ gìn.
Cầu khấn Tả Quân cũng không phải mê tín dị đoan, cũng chẳng phải trả giá, trả treo gì với tiền nhân, thực chất nó là niềm tin, là tình thương, là sự gửi gắm lòng thành, niềm tin của dân Nam Kỳ vào Tả Quân. Cái sự “linh thiêng” và “linh ứng” là một đặc trưng ở đây mà các nơi khác không có được.
Đốt giấy tiền vàng bạc ở Lăng Tả Quân thường là người Tàu, đó là tục của họ, họ cúng chùa Tàu cũng vậy mà thôi.
Lăng Ông Bà Chiểu đã trở thành trung tâm tín ngưỡng thờ Thần điển hình của người Nam Kỳ vùng Sài Gòn Gia Định, đồng thời cũng là biểu tượng giáo dục tinh thần chánh trị cho thế hệ trẻ Nam Kỳ.
Thông điệp là: Sống có chánh kiến, dám làm, dám chịu trách nhiệm,tay gươm tay viết,biết ý thức đem lợi ích về cho Nam Kỳ, biết phản kháng và chết vẫn hiển linh bảo vệ xứ sở mình.
Fb Nguyễn Gia Việt

Thứ Ba, 27 tháng 5, 2025

NƯỚC TA TỪNG CÓ TÊN LÀ “ ĐẠI NGU “




TÊN GỌI CỦA NƯỚC TA QUA CÁC THỜI KỲ :
1. Xích Quỷ - Tên nước ta thời vua Kinh Dương Vương:
Theo truyền thuyết, các tài liệu và thư tịch cổ, năm 2879 Trước Công nguyên, Kinh Dương Vương lên ngôi vua, lập lên Nhà nước Xích Quỷ - nhà nước sơ khai độc lập có chủ quyền đầu tiên của dân tộc ta. Kinh Dương Vương kết duyên với Thần Long sinh ra Lạc Long Quân (tên húy là Sùng Lãm). Sau đó, Lạc Long Quân kết duyên với Âu Cơ sinh ra các vua Hùng.
2. Văn Lang - Tên nước ta thời các Vua Hùng: Từ đầu thời đại đồng thau, có khoảng 15 bộ Lạc Việt sinh sống chủ yếu ở miền trung du và đồng bằng Bắc Bộ. Trong số các bộ lạc Lạc Việt, bộ lạc Văn Lang hùng mạnh hơn cả. Thủ lĩnh bộ lạc này là người đứng ra thống nhất tất cả các bộ lạc Lạc Việt, dựng lên Nhà nước Văn Lang, xưng vua - mà sử cũ gọi là Hùng Vương, kinh đô đặt ở Phong Châu.
Quốc hiệu Văn Lang mang ý nghĩa gì? Hiện nay có nhiều cách giải thích khác nhau. Văn Lang nghĩa là cội nguồn văn hóa mang sức mạnh lan tỏa. Thời gian tồn tại của nước quốc hiệu Văn Lang tồn tại khoảng 2.671 năm khoảng từ đầu thiên niên kỷ I trước Công nguyên đến thế kỷ III trước Công nguyên.
3. Âu Lạc - Tên nước ta thời vua An Dương Vương:
Sau khi khiến Tần Thủy Hoàng phải lui quân chịu thất bại trong âm mưu xâm lược nước ta vào năm 208 trước công nguyên, Thục Phán bằng ưu thế của mình đã xưng vương (An Dương Vương), liên kết các bộ lạc Lạc Việt và Âu Việt lại, dựng nên nước Âu Lạc (tên ghép hai chữ của hai bộ lạc Âu Việt và Lạc Việt). Quốc hiệu Âu Lạc tồn tại 50 năm từ 257 trước CN đến 207 trước CN.
4. Vạn Xuân - Tên nước ta thời nhà tiền Lý và nhà Ngô:
Vào mùa Xuân năm 542, Lý Bí khởi nghĩa, đánh đuổi quân Lương, giải phóng được lãnh thổ. Đến tháng 2 năm 544, Lý Bí lên ngôi Hoàng đế, lấy tên hiệu là Lý Nam Đế, đặt quốc hiệu là Vạn Xuân (Với ý nghĩa đất nước bền vững vạn mùa Xuân), khẳng định niềm tự tôn dân tộc, tinh thần độc lập và mong muốn đất nước được bền vững muôn đời.
Chính quyền Lý Bí tồn tại không lâu thì thất bại, nước ta rơi vào vòng đô hộ của các triều đại Trung Quốc (từ năm 602). Quốc hiệu Vạn Xuân trải qua nhiều thăng trầm và được khôi phục sau khi Ngô Quyền đánh tan quân Nam Hán bằng chiến thắng Bạch Đằng năm 938.
5. Đại Cồ Việt - Tên nước ta thời nhà Đinh: Năm 968, Ðinh Bộ Lĩnh dẹp yên loạn 12 sứ quân cát cứ, thống nhất đất nước, lên ngôi Hoàng đế và cho đổi quốc hiệu là Ðại Cồ Việt (Đại nghĩa là lớn, Cồ nghĩa là lớn, do đó tên nước ta có nghĩa là nước Việt lớn). Ta cũng thấy lần đầu tiên yếu tố “Việt” được có trong quốc hiệu.
Tên nước Đại Cồ Việt tồn tại 86 năm (968-1054) trải qua suốt đời Ðinh (968-979), Tiền Lê (980-1009) và đầu thời Lý (1010-1053).
6. Đại Việt - Tên nước ta thời nhà Lý, nhà Trần: Năm 1054, nhân điềm lành lớn là việc xuất hiện một ngôi sao sáng chói nhiều ngày mới tắt, nhà Lý (Lý Thái Tông) liền cho đổi tên nước thành Đại Việt (nước Việt lớn, yếu tố “Việt” tiếp tục được khẳng định), và quốc hiệu Đại Việt được giữ nguyên đến hết thời Trần thì bị thay đổi.
7. Đại Ngu - Tên nước ta thời nhà Hồ: Tháng 3 năm 1400, Hồ Quý Ly phế vua TrầnThiếu Đế lập ra nhà Hồ và cho đổi tên nước thành Đại Ngu (“Ngu” tiếng cổ có nghĩa là “sự yên vui”). Quốc hiệu đó tồn tại cho đến khi giặc Minh đánh bại triều Hồ (tháng 4/1407).
8. Đại Việt - Lại được sử dụng làm quốc hiệu nước ta vào thời kỳ Hậu Lê và nhà Tây Sơn: Sau 10 năm kháng chiến (1418-1427), cuộc khởi nghĩa chống Minh của Lê Lợi toàn thắng. Năm 1428, Lê Lợi lên ngôi, đặt tên nước là Ðại Việt (lãnh thổ nước ta lúc này về phía Nam đã tới Huế). Quốc hiệu Ðại Việt được giữ qua suốt thời Hậu Lê (1428-1787) và thời Tây Sơn (1788-1802).
Tính cả nhà Lý, Trần, Hậu Lê vàTây Sơn, quốc hiệu ĐẠI VIỆT của nước ta tồn tại 748 năm (1054-1804).
9. Việt Nam - Tên nước ta thời Nhà Nguyễn tính từ năm 1804-1884:
Năm 1802, Nguyễn Ánh lên ngôi vua và sau đó cho đổi tên nước là Việt Nam. Sách Đại Nam thực lục chép: “Giáp Tý, Gia Long năm thứ 3 (1804), tháng 2, ngày Đinh Sửu, đặt Quốc hiệu là Việt Nam, đem việc cáo Thái Miếu. Xuống chiếu bố cáo trong ngoài”.
Tên gọi Việt Nam mang ý nghĩa chỉ quốc gia của người Việt ở phương Nam để phân biệt với quốc gia của những người ở phương Bắc.
Quốc hiệu Việt Nam tồn tại 80 năm (1804-1884, đến năm 1884 Pháp hoàn thành “bình định” nước ta, xoá tên Việt Nam mà chia cắt nước ta thành 3 kỳ: Tonkin - Bắc Kỳ, Annam - Trung Kỳ, Cocochine - Nam Kỳ). Tuy nhiên, hai tiếng "Việt Nam" lại thấy xuất hiện khá sớm trong lịch sử nước ta như là trong các tài liệu, tác phẩm của trạng nguyên Hồ Tông Thốc (cuối thế kỷ 14), Nguyễn Trãi (đầu thế kỷ 15), trạng Trình Nguyễn Bỉnh Khiêm (1491-1585),...
10. Đại Nam - Tên nước ta thời vua Minh Mạng nhà Nguyễn: Đời vua Minh Mạng (1820-1840), quốc hiệu được đổi thành Ðại Nam (mang ý nghĩa nước Nam lớn). Dù vậy, hai tiếng "Việt Nam"vẫn được sử dụng rộng rãi trong các tác phẩm văn học, trong nhiều giao dịch dân sự và quan hệ xã hội. Quốc hiệu này tồn tại trên lý thuyết 107 năm từ năm 1838 đến năm 1945.
11. Việt Nam Dân chủ Cộng hoà - Tên nước ta trong thời kỳ kháng chiến chống Pháp và chống Mỹ (1945-1975):
Ngày 19/8/1945, Cách mạng Tháng Tám thành công, lật đổ hoàn toàn ách thống trị phong kiến và thực dân, mở ra một kỷ nguyên mới. Ngày 02/9/1945, Chủ tịch Hồ Chí Minh đọc Tuyên ngôn độc lập, khai sinh nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà.
Quốc hiệu này khác với các quốc hiệu khác ở chỗ gắn với thể chế chính trị (dân chủ cộng hòa) thể hiện bản chất và mục đích của nhà nước là quyền dân chủ, tự do, công bằng cho tất cả mọi người.
12. Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam - Tên nước ta từ năm 1976 đến nay:
Ngày 30/4/1975, miền Nam được giải phóng, đất nước được thống nhất. Ngày 02/7/1976, trong kỳ họp đầu tiên của Quốc hội nước Việt Nam thống nhất, toàn thể Quốc hội đã nhất trí lấy tên nước là Cộng hoà Xã hội chủ nghĩa Việt Nam.
Quốc hiệu này, cũng như quốc hiệu trước đó, gắn với thể chế chính trị (Cộng hòa xã hội chủ nghĩa) và mang ý nghĩa thể hiện mục tiêu vươn tới một xã hội tốt đẹp hơn.
……
( Sưu tầm )

Thứ Bảy, 29 tháng 3, 2025

Đặt tên cho quê hương, sao người ta đơn giản mà hay tuyệt, còn ta càng bàn càng rối



Từ Dũng Phan
1.Bờ sông Sài Gòn được chia ra ba đoạn. Đầu tiên là Bến Bạch Đằng, thứ đến là Bến Chương Dương, và cuối cùng là Bến Hàm Tử. Đó là gì? Vâng, là những trận thuỷ chiến trong lịch sử chống quân Nguyên Mông của quan quân nhà Trần vào thế kỷ 13. Riêng Bến Bạch Đằng lớn nhất thì có ở đó là bức tượng của vị quốc công tiết chế Trần Hưng Đạo chỉ tay ra bờ sông. Vậy bạn có nhớ ở bên kia bờ sông là bến gì không? Bến Vân Đồn - nơi Trần Khánh Dư đánh tan đoàn thuyền lương của Trương Văn Hổ, cũng là một trận thuỷ chiến thời đó.
2. Bạn hẳn đều ít nhiều nghe đến cái tên Nguyễn Thái Học, một trong số những người sáng lập Việt Nam Quốc dân đảng và lãnh đạo cuộc khởi nghĩa Yên Bái. Nhưng bạn có biết vợ của Nguyễn Thái Học không? Từ cầu Ông Lãnh đổ xuống, bạn sẽ đi trên đường Nguyễn Thái Học, và bạn sẽ gặp phu nhân của người. Đó là Cô Giang. Song song với đường Cô Giang là đường Cô Bắc. Nguyễn Thị Giang (tức Cô Giang) là vợ Nguyễn Thái Học, và Nguyễn Thị Bắc (tức Cô Bắc) là chị của Cô Giang.
3. Điện Biên Phủ là một con đường huyết mạch tại Sài Gòn ai ai cũng biết. Nhưng không mấy ai biết tên con đường này trước 1975 là đường gì. Đó là đường Phan Thanh Giản - tên của vị đại thần nhà Nguyễn đã ký bản hiệp ước cắt 3 tỉnh Nam Kỳ cho Pháp. Ông chịu án oan trăm năm mà chỉ được gột rửa trong chục năm trở lại đây. Sau năm 1975, tên đường Phan Thanh Giản đổi thành đường Điện Biên Phủ, đưa ông về quên lãng. Tuy nhiên ít ai biết rằng, sự tinh tế của vị đặt tên đường ấy vẫn để lại những dấu hiệu. Đó là người con của ông: Phan Liêm, Phan Tôn vẫn ở đó. Hai con đường ngắn, nhỏ, đặt song song, như ở cạnh hầu hạ cho linh hồn của người cha oan khuất bi kịch của mình. Ngày ngày, khi đi từ cầu Sài Gòn xuống mà muốn về nhà thờ Đức Bà, chúng ta sẽ rẽ vào Võ Thị Sáu, và quẹo vào một con đường nhỏ cắt qua Điện Biên Phủ. Con đường nhỏ ấy chính là đường Phan Liêm. Nhưng cha ông thì không còn đó nữa.
4. Phan Thanh Giản đỗ tiến sĩ và ra làm quan dưới triều Minh Mạng, vậy thì đương nhiên phải có đường Minh Mạng trước đó rồi đúng không. Vậy đường Minh Mạng ở đâu nhỉ? Đấy là đường Ngô Gia Tự hôm nay. Một con đường xứng đáng với tầm vóc của Minh Mạng: to, đẹp với 3 hàng cây rợp bóng mát, mang cái hùng tâm tráng chí của bậc đế vương tham vọng nhất nhì lịch sử Việt Nam. Và vị đại tướng của ông, người gánh trách nhiệm chinh chiến ở Campuchia là tướng Trương Minh Giảng, đó sẽ là một con đường nối dài từ quận này sang quận khác, như công tích vĩ đại kéo qua 2 nước, nhưng hẹp, hệt số phận bi kịch khi trở về. Con đường ấy hôm nay là đường Lê Văn Sỹ-Trần Quốc Thảo.
5. Tương tự con đường Trương Minh Giảng là con đường Gia Long. Đường Gia Long và đối thủ không đội trời chung của ông là Nguyễn Huệ có sự nghiệp thể hiện qua tên đường. Đường Gia Long tuy hẹp nhưng dài, đường Nguyễn Huệ tuy to, nhưng ngắn, như số phận của vị anh hùng dân tộc đánh đông dẹp bắc, công tích rực rỡ mà tuổi thọ ngắn ngủi. Đường Gia Long hôm nay là đường Lý Tự Trọng. Ở phía đầu đường Gia Long là nhóm những vị khai quốc công thần của ông, đó là đường Lê Văn Duyệt (nay là đường Cách Mạng Tháng Tám), đấy là đường Võ Tánh (Nguyễn Trãi Quận 1), Ngô Tùng Châu (nay là Lê Thị Riêng), quân sư Đặng Đức Siêu (đổi tên thành đường Nam Quốc Cang).
6. Một số cái tinh tế khác như đường Lê Lai nhỏ nằm cạnh đường Lê Lợi lớn, đường Sư Vạn Hạnh âm thầm nối gót cho đường Lý Thái Tổ, giúp rập Lý Công Uẩn lập ra nhà Lý. Khu vực người Hoa chợ Lớn thì rặt các con đường của những vị hiền triết của Trung Hoa như Trang Tử, Khổng Tử hay các vị người Hoa đã có công mở cõi như Mạc Cửu, Mạc Thiên Tích…. Còn ở Quận 1 ta thấy Nguyễn Trung Trực, Thủ Khoa Huân, Trương Công Định…các vị khởi nghĩa chống Pháp thì sát sạt nhau. Các vị nữ sĩ Bà Huyện Thanh Quan, Đoàn Thị Điểm, Hồ Xuân Hương khéo làm sao cũng ở bên nhau. Cách đó một khúc lại là cụm Bùi Thị Xuân, Huyền Trân Công Chúa và Sương Nguyệt Anh. Trong khi những vị trạng nguyên như Lê Quý Đôn, Phùng Khắc Khoan, Lê Văn Hưu, Mạc Đĩnh Chi là các con đường song song bàn cờ. Và hai danh nhân góp phần xây dựng nên chữ Quốc Ngữ là Hàn Thuyên và Alexandre de Rhodes thì lại song song nhau bên cạnh.
7. Ở phía bến xe miền Tây lại thuộc về thuở lập quốc của thuỷ tổ dân tộc. Đầu tiên là Hồng Bàng đúng không? Kế đó là Kinh Dương Vương, Hùng Vương, rồi An Dương Vương. Xa xa là những Triệu Quang Phục, Bà Triệu. Đủ rồi chăng? Hehe. Chưa hết, còn một con đường nữa là đường Triệu Đà thưa các bạn. Đường Triệu Đà hôm nay chính là đường Ngô Quyền. Thực ra trước năm 1975, đường Ngô Quyền-Triệu Đà nằm trên một trục. Như cái sự chấm dứt 1000 năm Bắc Thuộc mà Tiền Ngô Vương đã đem lại cho dân tộc vậy.Triệu Đà dẫu không còn, nhưng đi về thêm một chút nữa bạn sẽ lại gặp đường Lữ Gia, vị tể tướng người Thanh Hoá thời Triệu Đà.
8. Không chỉ có lịch sử, mà còn có những cái hay khác. Đi qua Bộ Y Tế thì là đường Hồng Thập Tự (nay gọi là đường Nguyễn Thị Minh Khai), đường Tự Do, Công Lý, Dân Chủ, Cộng Hoà, Thống Nhất thì được ở cạnh nhau như nói lên khát vọng nhân bản cao đẹp. Đặc biệt đường Công Lý thì quy tắc phải một chiều (vì có Công Lý nào tráo trở đâu). Đường Lục Tỉnh, đường Hậu Giang, đường Tháp Mười thì ở cạnh nhau. Rồi, quay về phía khu Bắc Hải là ta gặp một loạt cụm đường mang những địa danh của dân tộc đã đi vào huyền sử: Trường Sơn, Bạch Mã, Ba Vì, Đồng Nai, Cửu Long.
9. Lòng dân cũng là một trang sử mộc mạc.Tôi kể câu chuyện nhỏ, có một lần hai vợ chồng tôi đi ăn cháo lòng trên đường Võ Thị Sáu - Quận 3. Lúc ngồi xuống bàn, tôi thấy pass wifi là "hienvuong". Hiền Vương chính là tên con đường này trước 1975, là tên nhân gian gọi chúa Nguyễn Phúc Tần, ông là vị chúa thứ 4 của dòng chúa Nguyễn trong thời Trịnh - Nguyễn phân tranh, là người có công mở rộng lãnh thổ về phía Đồng Bằng Sông Cửu Long. Hiền Vương Nguyễn Phúc Tần còn là người đã tiếp nhận những đoàn thuyền của Dương Ngạn Địch, Trần Thượng Xuyên từ nhà Minh đi xuống, để họ tiến hành khai khẩn và tạo nên Cù Lao Phố, Mỹ Tho. Không có ông tạo nền tảng, sẽ không có Sài Gòn Chợ Lớn TPHCM sầm uất như ngày hôm nay.Chúa Nguyễn Phúc Tần còn là một nhân vật hùng bá ở trên biển. Ông có tham vọng đánh ra Bắc phía chúa Trịnh, và từng đuổi quân Anh, quân Hà Lan...khi họ dám bắt người và xâm phạm bờ cõi Đàng Trong.Sau năm 1975, đường Hiền Vương trở thành đường Võ Thị Sáu. Tuy nhiên như đã nói ở trên, lòng dân là một trang sử mộc mạc. Dẫu bị đổi thay thế nào, dẫu sử sách có quên lãng và các vấn đề chính trị đã xô đẩy họ rời khỏi trang sách, thì nơi đây, lòng dân vẫn biết cách để nhớ về, dù chỉ bằng một cái pass wifi ngắn ngủi.
10. Người tạo nên kiệt tác lịch sử với các câu chuyện tôi kể trên kia là … một công chức. Ông là Trưởng Phòng Họa Đồ thuộc Tòa Đô Chánh Saigon. Bộ phận được lệnh gấp rút thay thế toàn bộ tên đường từ tên Pháp qua tên Việt trong khoảng thời gian ngắn nhất, sau khi tổng thống Ngô Đình Diệm nắm quyền. Tên ông là Ngô Văn Phát, Nhà văn – bút hiệu Thuần Phong, sinh ngày 16 tháng 10 năm 1910 tại huyện Vĩnh Lợi, tỉnh Bạc Liêu.
Để xây dựng nên công trình lịch sử thập phần tinh tế này, ông cần 3 tháng.
3 tháng cho một đời !
Copy fb Hoàng Linh .

Thứ Hai, 24 tháng 3, 2025

KHÔNG CHĂM THÌ LƯỜI (Ninh Thuận)




Nghe đồn, Ninh Thuận sẽ tan biến vào Khánh Hoà. Mảnh đất cuối cùng của người Chăm, liệu có còn địa danh nào sống sót hay không?
Hồi nhỏ, đọc thơ Chế Lan Viên thấy người Hời than khóc nỗi mất nước, nhớn lên thấy báo chí ghi là người Chàm, tháp Chàm. Rồi bỗng dưng nghe nói phải gọi là Chăm mới chính danh. Không chăm thì lười, có sao đâu. Hể?
Xưa, biên giới phía bắc của người Chăm ở tận Thanh- Nghệ- Tĩnh. Sau mấy thế kỷ tranh chấp lằng nhằng, năm 1611 đất Chăm chỉ còn từ đèo Cả tới sông Cà Ty (chảy qua TP Phan Thiết). Đến TK17, vùng đất này gọi là vương quốc Panduranga, đóng đô ở TP Phan Rang- Tháp Chàm. Sang TK18, bị lấn tiếp, họ dời đô vào Phan Rí. Sang TK19, để đền đáp công lao người Chăm đã tham gia đánh Tây Sơn, vua Gia Long cho tái lập tiểu quốc Panduranga, hưởng quy chế tự trị. Minh Mạng lên ngôi, bỏ quyền tự trị, đổi tiểu quốc Panduranga ra trấn Thuận Thành.
Năm 1832 thành lập tỉnh Bình Thuận, gồm 2 phủ Hàm Thuận và Ninh Thuận. Như vậy, danh xưng Ninh Thuận xuất hiện dưới gầm trời từ năm 1832.
Năm 1901 thành lập tỉnh Phan Rang trên địa phận Panduranga, tỉnh lị cũng mang tên Phan Rang, là phiên âm từ chữ Panduranga. Như vậy, tỉnh Phan Rang xuất hiện trên thế gian từ năm 1901.
Năm 1976 Phan Rang sáp nhập với Bình Thuận và Bình Tuy thành tỉnh Thuận Hải. Năm 1977 giải thể thị xã Phan Rang, đến 1981 tái lập nhưng mang tên mới: thị xã Phan Rang- Tháp Chàm. Năm 1991 tái lập tỉnh Ninh Thuận, tỉnh lị là thị xã Phan Rang- Tháp Chàm. Năm 2015 thị xã này được nâng cấp lên thành phố.
Ninh Thuận có gì?
Có khí hậu khô nóng nhất và lượng mưa trung bình ít nhất cả nước. Nguồn nước ngầm trong tỉnh chỉ bằng 1/3 mức bình quân cả nước. Chả thế mà Ninh Thuận được mệnh danh là Vùng đất của nắng và gió.
Là tỉnh có nhiều người Chăm nhất Việt Nam (nhì là tỉnh An Giang), được coi là trung tâm của nền văn hoá Chăm ở Việt Nam với hệ thống tháp Chăm gần như nguyên vẹn và còn duy trì nghề truyền thống của người Chăm, tiêu biểu là Làng gốm Bàu Trúc và Làng thổ cẩm Mỹ Nghiệp. Hiện có 4 hiện vật được công nhận là Bảo vật quốc gia: bia Phước Thiện, tượng Pô Klong Garai và bia Hoà Lai.
Là tỉnh có đàn cừu đông đảo nhất Việt Nam. Xưa, người Chăm mang từ Ấn Độ về nuôi thử, thấy OK vì cái gì nó cũng xơi, kể cả xương rồng, lại chịu được cái nắng hạn kinh hoàng nơi đây. Hầu hết người Chăm theo đạo Hồi không ăn thịt lợn, còn lại theo đạo Bà-la-môn không ăn thịt bò, nên họ chén thịt cừu. Thế là cừu sinh sôi nảy nở tưng bừng. Tui ăn rồi, ngon cực!
Ninh Thuận là tỉnh có quy mô trồng nho nhiều nhất nước ta. Bát ngát, lúc lỉu, ngọt lừ.
Anh hùng có Pinăng Tắc (1910-1977) chuyên xài bẫy đá đánh giặc. Nhạc sĩ có Nguyễn Ánh 9 (1940-2016) với lời từ chối phũ phàng: “Không! Không! Tôi không còn, tôi không còn yêu em nữa”. Ca sĩ có Chế Linh (sinh 1942), người Chăm, là 1 trong 4 giọng ca nam nổi đình đám nhất của nhạc vàng, cùng với Duy Khánh, Nhật Trường và Hùng Cường. Nhạc sĩ người Chăm Từ Công Phụng (sinh 1942) nổi danh với ca khúc “Bây giờ mấy tháng rồi hỡi em”, í lộn: tháng mấy rồi hỡi em. Hoạ sĩ Đỗ Quang Em (1942-2021) có bức tranh Ấm và tách trà, năm 1995 bán đấu giá được 50.000 USD, cao nhất thời đó. Po Dharma (1945-2019) là tiến sĩ người Chăm (cực hiếm), nhà nghiên cứu văn hoá sử Chămpa nổi tiếng. Vân vân và mây mây.
Ninh Thuận là quê của tổng thống VNCH Nguyễn Văn Thiệu, nay vẫn còn ngôi nhà của cha mẹ ổng, cũng là nơi ổng sinh ra và lớn lên. Ai đã tham quan dinh Độc Lập, ghé vào phòng Tổng thống trên tầng 2 sẽ thấy sau ghế ổng treo bức tranh to đùng vẽ bờ biển Ninh Chữ cong cong.
Cách nhà cha mẹ ổng không xa, lưng chừng núi có tảng đá to hình lưỡi dao bầu chĩa lên trời, gọi là núi Đá Dao. Dưới 1 tí có tảng đá nham nhở trông như mặt con quỷ dữ, gọi là đá Mặt Quỷ. Ngày 6-1-1975 Phước Long thất thủ, đêm đó sét đánh cái rầm vào hòn Đá Dao khiến nó vỡ đôi, lăn lông lốc xuống, va vào đá Mặt Quỷ, vỡ một mảnh rồi cùng lăn xuống chân núi. Thầy bói phán: Ông Thiệu tới số rồi!
Tiết Kinh trập (sâu nở) xuân 1975, vùng Văn Sơn, Bình Sơn, Khánh Hải, Ninh Chữ đột nhiên xảy ra trận thiên địch lớn chưa từng thấy. Ti tỉ con sâu bọ các loại dày đặc, lúc nhúc chui từ núi ra, hết đợt này đến đợt khác. Chúng bò lổm ngổm thành những tấm thảm vô tận, tràn qua đường sá, ruộng vườn. Tràn đến đâu, cỏ cây hoa màu sạch bách đến đấy. Tỉnh trưởng cho lính chở mấy xe dầu cặn ra phun rồi đốt mà không ăn thua. Sáng hôm sau, lũ sâu bỗng dưng biến mất tăm mất tích. Thế mới kỳ. Thầy bói lại phán: Vận ông Thiệu đã hết!
Ngày 2-4-1975 Nha Trang thất thủ, lính tráng tháo chạy chạy vào Phan Rang. Thấy khu mộ ông bà tổ tiên của Thiệu hơi bị hoành tráng, họ điên tiết tương mấy trái lựu đạn, bung bét hết cả. Thầy bói phán tiếp: Vận ông Thiệu hết thật rồi!
Đại tướng Mỹ Weyand sang giải nguy, thiết lập Phòng tuyến Phan Rang, cử trung tướng Nguyễn Vĩnh Nghi làm tư lệnh. Tối 16-4-1975 phòng tuyến vỡ tan, Nghi và chuẩn tướng Phạm Ngọc Sang, tư lệnh sư đoàn 6 không quân, bị bắt sống khi đang chui rúc trong công sự. Sư đoàn này đóng ở sân bay Thành Sơn, nơi phi đội A37 của QGP xuất kích đi đánh bom sân bay Tân Sơn Nhất chiều 28-4-1975.
Biển Ninh Thuận đẹp đáo để. Cả 4 bãi biển đẹp nhất tỉnh là Bình Tiên, Ninh Chữ, Bình Sơn, Cà Ná đều đã in dấu chân cái lão tui.
Tỉnh Ninh Thuận đã từng có 2 dự án Nhà máy điện hạt nhân, tổng công suất trên 4.000 MW, âm mưu khởi công năm 2020. Đùng 1 phát, thảm họa Fukushima năm 2011 xảy ra, các đấng lãnh đạo của ta khiếp vía, bèn stop. Nay, nghe đồn rậm rịch làm trở lại.
Đến Ninh Thuận mà không lượn qua thủy điện Đa Nhim để ngắm 2 cái ống to đùng từ hồ trên cao dẫn nước xuống thì coi như chưa đến Ninh Thuận.
Chuyện rằng, tháng 9-1951 tại Hội nghị San Fracisco (Cựu Kim Sơn), thủ tướng QGVN Trần Văn Hữu đòi Nhật Bản bồi thường chiến tranh 2 tỉ USD (thời giá 1945 đấy nhé). Khoản tiền kinh hoàng này khiến Nhật giả vờ điếc. Hơn nữa, Nhật cho rằng đối tượng đến bù phải là VN DCCH chứ. Năm 1956 tổng thống VNCH Ngô Đình Diệm rút xuống còn 250 triệu USD, Nhật đề nghị 25 triệu, chỉ bằng 10%. Năm 1957 Nhật đề xuất xây thủy điện Đa Nhim với giá 30 triệu USD, Diệm ứ chịu. Cò kè bớt 1 thêm 2, đến 1959 thì OK: 39 triệu USD. Khởi công tháng 4-1961 đến tháng 12-1964 bắt đầu phát điện. Năm 1968 bom đạn phá hỏng tùm lum, coi như ngừng. Năm 1975 ta sửa chữa, ngày 23-5-1976 dòng điện Đa Nhim bắt đầu chạy re re.
Quý vị nào từng đọc tiểu thuyết Bông mai mùa lạnh của nhà văn Phương Lê, xuất bản năm 1979, sẽ thấy xoay quanh việc sửa chữa đó. Tui xem rồi, cả 2 tập.
Tui đã máy phen dẫn sinh viên đi thực tế ở Đà Lạt, tiện đường ghé thủy điện Đa Nhim. Ảnh đó. Ai có mặt, giơ tay lên!
Hê hê hê!
Nguồn: Có Hưởng

99 năm cụ Phan Châu Trinh hạc giá vân du

    

    Hôm nay (24/3/2025) tưởng niệm 99 năm ngày "hạc giá vân du", cỡi hạc bay về trời của đại chí sỹ yêu nước Phan Châu Trinh (1872 - 1926), hiệu là Tây Hồ, sinh quán Quảng Nam.
    Ông sinh ra trong một nhà Nho yêu nước, trong lúc nước mất nhà tan, lớn lên trong cảnh thực dân Pháp đô hộ. Ông cùng nhiều chí sỹ yêu nước đã tiến hành canh tân đất nước bằng con đường bất bạo động. Đọc lịch sử ông ta thấy ông thể hiện một phần khí phách của một anh hùng, ông đi từ Trung vào Nam, rồi ra Bắc, gặp những người cần gặp (Phan Bội Châu, Nguyễn An Ninh, Phan Văn Trường, anh Hùng Yên Thế-Hoàng Hoa Thám, Lương Khải Siêu), cụ Hồ, đi cả Tàu lẫn Tây để thương thảo canh tân đất nước. Các bài viết của ông có giá trị cao, với tư tưởng: Khai dân trí, chấn dân khí, hậu dân sinh.

    Ông được xếp vào hàng ngũ vĩ đại những nhà cách tân lúc bấy giờ, sánh cùng với Tôn Dật Tiên ở Trung Quốc, và Gandi bên Ấn Độ. Những di sản, tư tưởng cách tân của ông mãi soi sáng, mở cửa, tầm vóc cho thế hệ Việt.
Từ xa bái vọng về cố quốc!

Viết vội bằng trí nhớ, tại Gia Nghĩa, ngoại quốc. 
Trường An Đỗ Tấn Thích

Thứ Bảy, 22 tháng 3, 2025

HOA VÀNG TRÊN CỎ XANH




Phú Yên là phú quý bình yên. Nếu sáp nhập tỉnh, danh xưng này biến mất thì còn phú quý bình yên và vẫn thấy “hoa vàng trên cỏ xanh”.
Tui đến Phú Yên lần đầu tiên vào cuối năm 1980. Tốt nghiệp, từ Hà Nội đi nhận nhiệm sở, tui zọt qua Quy Nhơn zô Sài Gòn chơi cái đã. Đến ga Tuy Hoà, tàu phải dừng vì đèo Cả sạt lở lấp đường sắt. Thế là ngày nào tui cũng lang thang, không hang cùng ngõ hẻm nào ở thị xã Tuy Hoà là chưa in gót. Bé tí, nhếch nhác. Đúng 10 ngày sau mới có xe đò (xe khách) để “tăng-bo” hành khách vào ga Đại Lãnh. Nhờ đó mà tui được chiêm ngưỡng đèo Cả và ngắm nghía hòn Đá Bia. Nhớ đời.
Năm 1471 vua Lê Thánh Tông thân chinh cầm quân Nam tiến đến tận đèo Cả. Rồi thấy khó giữ, bèn rút ra đèo Cù Mông. Phần đất Phú Yên ngày nay gọi là Ayaru, giao cho 1 viên quan Chiêm Thành đã quy phục ta, cai quản. Một thế kỷ sau, năm 1578 chúa Nguyễn Hoàng cử tướng Lương Văn Chánh đánh chiếm Ayaru. Người Chiêm âm ỉ kháng chiến, vùng đất này trở thành nơi tranh chấp liên miên. Muốn giữ đất thì phải có dân, Lương Văn Chánh tổ chức đưa dân từ Thanh- Nghệ- Thuận- Quảng vào khẩn hoang lập ấp. Năm 1611 người Chiêm bị đánh bật qua đèo Cả, vùng Ayaru được sáp nhập vào xứ Đàng Trong với tên gọi Phú Yên.
Vậy, danh xưng Phú Yên xuất hiện từ năm 1611, ngay khi trở thành 1 phần lãnh thổ Đàng Trong.
Năm 1832 vua Minh Mạng thành lập tỉnh Phú Yên. Năm 1904 tỉnh Phú Yên, lúc đó bao gồm cả Đăk Lăk, Gia Lai ngày nay, bị Pháp xẻ nhỏ ra, mất danh xưng Phú Yên. Năm 1921 Pháp tái lập tỉnh Phú Yên gồm 4 huyện Tuy Hòa, Tuy An, Đồng Xuân, Sơn Hòa. Năm 1976 Phú Yên sáp nhập với Khánh Hoà thành tỉnh Phú Khánh, đến 1989 lại tách ra, vũ như cẫn.
Khi tái lập tỉnh, tui được mời đến Tuy Hoà dạy cho nửa lớp Cao đẳng Sư phạm Nha Trang bị “đuổi” về quê. Trường chia đôi, những ai quê Phú Yên đều bị “tống cổ”, cả thầy lẫn trò. Nghe các thầy nói chuyện cãi vã chia chác từ chiếc ô-tô cà tàng đến cái bàn rụng càng, cái ghế gãy cánh mà cười ra nước mắt. Lại còn chuyện tranh chấp cái vịnh Vũng Rô, hai bên dàn quân gầm ghè nhau nữa chớ. Rõ chán!
Vũng Rô có sự kiên 24-2-1965, tàu không số bị địch phát hiện lần đầu tiên. Rùm beng hết cả lên.
Phú Yên có ai?
Có ông Lương Văn Chánh (? -1611) người gốc Thanh Hóa, có công mở mang bờ cõi và gây dựng vùng đất này. Ông được chúa Nguyễn phong tước Bảo quốc Hộ dân chi thần. Nay, đền thờ ông là Di tích lịch sử cấp quốc gia. Lại có ông Lê Thành Phương (1825-1887) quê Tuy An, năm 1885 chiêu tập nghĩa quân chống Pháp trong phong trào Cần Vương. Đền thờ ông là Di tích LSVH cấp quốc gia. Hai anh em ruột Nhật Lai, Nguyễn Mỹ cùng sinh tại Tuy An, cùng đoạt Giải thưởng Nhà nước về VHNT. Nhạc sĩ Nhật Lai với nhạc kịch Bên bờ Krông Pa (là sông Ba đấy), nhạc múa Tiếng trống Chăm H’roi, ca khúc Hà Tây quê lụa, Bài ca anh Hồ Gíáo, v.v. Nhà thơ Nguyễn Mỹ có Cuộc chia ly màu đỏ, Con đường ấy, Hoa cúc tím, v.v. Tổng bí thư Trần Phú quê Hà Tĩnh, sinh tại Tuy An (Phú Yên) và chết ở Sài Gòn.
Sáng 1-9-1945 Thượng thư Bộ Lại Ngô Đình Diệm khi trốn chạy bị du kích Việt Minh tóm cổ trên sông Đà Rằng. Sau đó Diệm được giải ra Hà Nội. Chủ tịch Hồ Chí Minh gặp Diệm, rồi thả ra.
Năm 1955 luật sư Nguyễn Hữu Thọ bị chính quyền Ngô Đình Diệm quản thúc tại Tuy Hoà. Ngày 29-10-1961 ông được ta giải thoát, đưa ra chiến khu giữ chức Chủ tịch Mặt trận Dân tộc Giải phóng. Sau này ông là Chủ tịch Quốc hội, Phó chủ tịch nước rồi Quyền chủ tịch nước.
Ngày 1-4-1975, tàn quân triệt thoái khỏi Tây Nguyên theo Quốc lộ 7B về đến Tuy Hoà. Tơi tả. Chuẩn tướng Trần Văn Cẩm, Phó tư lệnh Quân đoàn 2 bị tóm gọn. Đây là viên tướng ngụy đầu tiên bị bắt sống trong kháng chiến chống Mỹ.
Cháu đích tôn của cha tôi công tác ở Lào Cai, xớ rớ thế quái nào mà lấy vợ tận Phú Yên. Hồi đó tui ở Quy Nhơn, thế là trở thành “tư lệnh tiền phương” của cái đám cưới ngàn trùng xa cách, nhưng “mấy sông cũng lội, mấy đèo cũng qua”.
Phú Yên có gì?
Có sông Đà Rằng rộng nhất duyên hải miền Trung và cầu Đà Rằng dài nhất Trung Kỳ nhì Đông Dương, chỉ thua cầu Long Biên. Đà Rằng là biến âm từ Ea Đrăng của tiếng Chăm, có nghĩa là Sông Lau Sậy. Thượng nguồn của nó là sông Ba, còn gọi là sông Ea Pa, Ia Pa hay Krông Pa. Nhắc đến sông Ba, hẳn nhiều người nhớ đến bài hát Cô gái vót chông với giọng ca Tường Vy lảnh lót một thời:
Như bao cô gái ở trên non
Cô gái sông Ba đầu búi tóc thon…
Chuyện rằng, năm 1954 ông Lô Mô Y Choi, người Ê Đê ở huyện Sông Hinh, tập kết ra Bắc. Năm 1965 nghe đài nói phong trào vót chông rào làng đánh Mỹ, ông hình dung những cô gái ngồi vót chông bên dòng sông Ba quê mình, thế là bài thơ ra đời. Nhạc sĩ Hoàng Hiệp chộp được, phổ nhạc, và thành bài hát.
Về kinh tế, so với các tỉnh duyên hải Trung Bộ, Phú Yên có vẻ thiệt thòi nhất. Rẻo đất ven biển này bị bao vây chặt cứng. Lên Tây Nguyên bị núi rừng trùng điệp ngáng đường. Ra bắc phải vượt đèo Cù Mông hiểm trở. Vào nam phải qua đèo Cả chót vót. Bờ biển phía đông khá dài nhưng không có cảng nước sâu, ứ giao thương được với bên ngoài. Tứ bề bị chặn như thế, phát triển kinh tế khó đáo để.
Tuy nhiên, Phú Yên là tỉnh đánh bắt cá ngừ đại dương nhiều nhất cả nước. Chả thế mà xứ này nổi tiếng với món mắt cá ngừ chưng trong thố và món gỏi bao tử (dạ dày) cá ngừ. Tui ăn rồi. Ngon!
Về văn hoá, bộ phim Tôi thấy hoa vàng trên cỏ xanh nổi như cồn đã tạo động lực cho du lịch Phú Yên phát triển. Đó là trong phim, ngoài đời thì đoạn QL1A qua thị xã Sông Cầu có cung đường “15 cây số ăn chơi” nổi tiếng. Từ Gành Ráng, Quy Nhơn đi một đoạn là tới. Tui đến hoài, đã lắm! Trên trời thì có trăng La Hai với vẻ đẹp hoang sơ ma mị, khiến lủ khủ thi sĩ tốn giấy hao mực. Một đêm rằm năm 1989 tui đã ngồi vắt vẻo trên cây cầu sắt ở gần ga La Hai để ngắm trăng. Tuyệt cú mèo!
Về danh lam thắng cảnh, Phú Yên là vùng đất hoang sơ, xinh đẹp với nhiều bãi biển, đầm vũng và di tích lịch sử văn hoá. Khu bảo tồn thiên nhiên quốc gia Krông-Trai với hệ động vật và thực vật phong phú đa dạng. Rồi Núi Đá Bia, Núi Nhạn, Vũng Rô, đầm Ô Loan, vịnh Xuân Đài… Đặc biệt, tại thị xã Đông Hoà có Mũi Điện, còn gọi là Mũi Đại Lãnh, là điểm đón ánh bình minh sớm thứ 2 trên đất liền của Việt Nam. Nó chỉ thua Mũi Đôi ở Vạn Ninh (Khánh Hoà) có 4 giây kinh độ. Kinh độ Đông của Mũi Điện là 109˚27'06" còn của Mũi Đôi là 109˚28'00". Xíu xìu xiu.
Có sông phải có núi mới cân bằng, thế là giữa đồng bằng Tuy Hòa phẳng phiu bỗng mọc lên quả núi Chóp Chài cao 394 mét, chơi vơi. Lên đỉnh ngó xuống TP Tuy Hòa đã mắt lắm. Tôi lên đó rồi, chạy mô-tô khỏe re.
Huyện Tuy An có Gành Đá Đĩa, một kỳ quan thiên nhiên do núi lửa phun trào tạo nên. Nó được công nhận là Thắng cảnh cấp quốc gia năm 1997 và xếp hạng Di tích quốc gia đặc biệt năm 2020.
Về công trình nhân tạo, nhà thờ Mằng Lăng ở huyện Tuy An có từ năm 1892, là 1 trong những nhà thờ đá lâu đời nhất Việt Nam.
Công trình mới toe mà hoành tá tràng nhất Phú Yên là cái tháp Nghinh Phong. Đến TP Tuy Hòa mà chưa tới đây ngắm nghía, sờ soạng và lắng nghe âm thanh của nó thì coi như chưa thấy “hoa vàng trên cỏ xanh”. Thực ra là Nghênh Phong, trong đó Nghênh là đón chào, Phong là gió, rồi biến âm mà thành.
Tác giả thiết kế đã kết hợp huyền sử Trăm trứng trăm con với cảm hứng Gành Đá Đĩa. Tháp có 2 cột, cột Lạc Long Quân cao 34 mét và cột Âu Cơ thấp hơn 6 mét. Cuộc ly hôn đầu tiên trong lịch sử nước ta được thể hiện bằng 1 khe hẹp ngăn cách đôi uyên ương. Vì chia sòng phẳng 50 con theo mẹ, 50 con theo cha, nên mỗi bên chân tháp có 50 khối đá lục giác xếp chồng lên nhau. Nghe nói thế chứ sức đâu mà đếm! Nhìn từ xa, công trình như mũi tàu băng băng vượt trùng dương, những khối đá tối sáng lấp loáng như sóng đang tung bọt. Túm lại là: Hết sảy!
Tui đến rồi nên tui biết. Ảnh đó. Hê hê hê!
Nguồn: Có Hưởng

Thứ Sáu, 21 tháng 3, 2025

QUY NHƠN HƠN BÌNH ĐỊNH





Thứ nhất là già hơn: danh xưng Quy Nhơn (Quy Nhân) xuất hiện trước danh xưng Bình Định 197 năm (1602-1799). Thứ nhì là nhiều món hơn: biển xanh cát trắng, cảng nước sâu, hải đăng lấp loáng, đầm phá bao la, cầu Thị Nại dài thoòng, núi Vũng Chua có radar hiện đại, bán đảo Phương Mai có ông Trần Hưng Đạo uy nghi, vân vân và mây mây.
Chả thế mà nghe đồn, nếu sáp nhập tỉnh thì Bình Định mất tên, nhưng Quy Nhơn vẫn cứ là thủ phủ.
Chuyện rằng, năm 1471 vua Lê Thánh Tông mở mang bờ cõi, thành lập thừa tuyên Quảng Nam gồm 3 huyện Bồng Sơn, Phù Ly và Tuy Viễn trải từ đèo Hải Vân đến đèo Cù Mông. Một thế kỷ sau, theo kế “Hoành Sơn nhất đái, vạn đại dung thân” của Nguyễn Bỉnh Khiêm, Nguyễn Hoàng vào đây, đổi huyện Bồng Sơn ra phủ Hoài Nhân, mong muốn quy tụ người hiền tài nhân nghĩa. Chả là theo Hán tự thì Hoài là mong, nhớ, nghĩ về; Nhân là nhân ái, tình người mà lị. Từ đó, vùng đất này xuất hiện lủ khủ các địa danh có chữ Nhân: Quy Nhân, Nhân Hội, Nhân Lý, Nhân Hải, Nhân Châu, v.v. Năm 1602 chúa Nguyễn Hoàng đổi phủ Hoài Nhân ra phủ Quy Nhân. Rồi do tật biến âm, người ta đọc là Hoài Nhơn, Quy Nhơn. Có ý kiến cho là do kỵ huý. Sao cũng được!
Như vậy, danh xưng Quy Nhơn (Nhân) xuất hiện trong vũ trụ này từ năm 1602.
Năm 1930 Pháp nâng cấp thị xã Quy Nhơn lên thành phố cấp 3. Sau CMT8-1945, Việt Minh cai quản Quy Nhơn, gọi là thị xã Nguyễn Huệ. Nửa cuối thập niên 1950 chính quyền VNCH đổi là xã Quy Nhơn thuộc quận Tuy Phước. Năm 1970 xã Quy Nhơn nhảy sang quận Nhơn Bình. Năm 1971 xã Quy Nhơn lại trở thành thị xã. Đất nước thống nhất, năm 1976 "khắc nhập" Bình Định với Quảng Ngãi thành tỉnh Nghĩa Bình, lấy thị xã Quy Nhơn làm tỉnh lị. Năm 1986 thị xã Quy Nhơn được lên thành phố, năm 1998 lên đô thị loại 2, năm 2010 lên đô thị loại 1.
Bi chừ nói chuyện Bình Định.
Năm 1471 vua Lê Thánh Tông chiếm kinh đô Đồ Bàn của Chiêm Thành, đốt trụi, san phẳng rồi bỏ hoang. Năm 1773 Nguyễn Nhạc tự xưng hoàng đế, đến đây đóng đô, xây dựng tử tế, gọi là thành Hoàng Đế. Năm 1799 Nguyễn Ánh đích thân chỉ huy đánh chiếm thành, đổi tên là thành Bình Định.
Như vậy, danh xưng Bình Định xuất hiện trong Hệ Mặt trời này từ năm 1799.
Năm 1802 vua Gia Long thống nhất giang sơn, lập ra doanh Bình Định gồm phủ Quy Nhơn và 3 huyện Phù Ly, Tuy Viễn, Bồng Sơn. Đến 1806 doanh Bình Định đổi là trấn Bình Định, lị sở là thành Bình Định. Năm 1814 xây thành Bình Định mới, cách thành cũ 5 km về phía sông Kôn, nay thuộc phường Bình Định, thị xã An Nhơn.
Năm 1979, xã Nhơn Hưng của huyện An Nhơn bị thiến 1 phần khơ khớ để thành lập thị trấn Bình Định. Từ đó tỉnh Bình Định có 1 thị trấn trùng tên, khiến khách vãng lai không khỏi lăn tăn. Năm 2011 thành lập thị xã An Nhơn, thị trấn Bình Định trở thành phường Bình Định. Sắp tới bỏ cấp huyện, thị xã An Nhơn có lẽ bị xoá sổ, chẳng biết phường Bình Định có còn không.
Năm 1816 vua Gia Long dời thủ phủ của trấn Bình Định đến Quy Nhơn. Như vậy, Quy Nhơn trở thành thủ phủ của Bình Định từ năm 1816.
Năm 1832 vua Minh Mạng chia nước ta ra 30 tỉnh và 1 kinh thành, danh xưng “tỉnh Bình Định” chính thức xuất hiện từ đây. Lúc này tỉnh Bình Định có 2 phủ An Nhân (Nhơn), Hoài Nhân (Nhơn) và 5 huyện Bồng Sơn, Phù Mỹ, Phù Cát, Tuy Phúc (Phước), Tuy Viễn.
Bình Định có gì?
Trước hết là có võ:
Ai về Bình Định mà coi
Con gái Bình Định múa roi đi quyền.
Danh lam thắng cảnh thì bát ngát, nhưng khổ nỗi, dồn cả đống vào Quy Nhơn. Còn lại thì huyện Tây Sơn có Bảo tàng Quang Trung, ranh giới 2 huyện Phù Mỹ, Phù Cát có vịnh (hay vũng, đầm) Đề Gi, nước mặn thụt lưỡi mà có tên dân gian là đầm Nước Ngọt:
Mặn chằng nước vũng Đề Gi
Gọi đầm Nước Ngọt lẽ gì hỡi em?
Danh nhân Bình Định thì lủ khủ: vua Quang Trung- Nguyễn Huệ (1753-1792), chí sĩ Tăng Bạt Hổ (1859-1906), anh hùng Ngô Mây (1924-1947) đánh bom cảm tử, bác sĩ Phạm Ngọc Thạch (1909-1968, sinh tại Quy Nhơn), Đào Tấn (1845-1907) ông tổ hát bội (tuồng), Xuân Diệu (1916-1985, sinh tại Quy Nhơn) “ông hoàng thơ tình”, v.v.
Quy Nhơn có gì?
Bát bao la ngát, gõ cả ngày không hết. Bởi thế tui chỉ nói đến cái đỉnh núi Vũng Chua cao nhất Quy Nhơn.
Từ Gành Ráng, nơi có bãi tắm Tiên Sa và mộ Hàn Mặc Tử, lối vào Trại phong Quy Hòa chỉ qua 1 con đèo duy nhất: đèo Quy Hòa. Đến lưng đèo rẽ tay phải là lối lên đỉnh Vũng Chua. Năm 1965 Mỹ đặt hệ thống radar hoành tá tràng, trông như những cánh buồm căng gió giữa lồng lộng mây trời.
Năm 1990 quân đội bàn giao núi Vũng Chua cho Trung tâm Quản lý bay dân dụng VN. Trạm radar mới mọc lên, năm 1994 bắt đầu hoạt động. Cũng năm đó, trường ĐHSP Quy Nhơn đang có lớp Điện tử- Viễn thông do cái lão tui phụ trách, thế là tui đưa sinh viên lên đó tham quan thực tế. Đứng ở độ cao 620 mét so với mặt biển, thấy TP Quy Nhơn như cánh buồm cong cong giữa 3 bề sóng vỗ. Hết sảy! Thế là chụp ảnh.
Hê hê hê!
Sưu tầm: Có Hưởng

Thứ Năm, 20 tháng 3, 2025

QUẢNG NGÃI VẪN CÒN



Dân gian có câu vè gắn với 4 tỉnh nối tiếp nhau trải dài ven biển Trung Trung Bộ, từ đèo Hải Vân đến đèo Cả: Nam- Ngãi- Bình- Phú:
Quảng Nam hay cãi
Quảng Ngãi hay lo
Bình Định nằm co
Phú Yên hốt hết.
Bà con ám chỉ những đặc điểm gì, đúng sai thế nào ứ rõ, chỉ biết rằng câu vè này đã lan truyền dai dẳng suốt mấy trăm năm, chắc là có lý do. Nay nghe đồn, sau khi sáp nhập tỉnh thì Quảng Nam, Bình Định, Phú Yên mất tên, riêng Quảng Ngãi là còn. Đã thế, thành phố Quảng Ngãi cũng được lấy làm thủ phủ của tỉnh mới. Rõ là được cả chì lẫn chài. Híc!
Quảng Ngãi có gì mà gớm thế?
Chuyện rằng, năm 1403 vua Hồ Quý Ly mở mang bờ cõi đến sông Trà Khúc, lập ra 4 châu Thăng, Hoa, Tư, Nghĩa. Rồi nhà Hồ suy vong, người Chiêm lấy lại. Năm 1471 vua Lê Thánh Tông mở cõi phăng phăng, thành lập thừa tuyên Quảng Nam trải từ đèo Hải Vân đến đèo Cù Mông. Năm 1602 chúa Nguyễn gọi là dinh Quảng Nam và đổi phủ Tư Nghĩa ra phủ Quảng Nghĩa (Ngãi).
Danh xưng Quảng Nghĩa (Ngãi) xuất hiện từ đây, năm 1602.
Năm 1776 nhà Tây Sơn đổi phủ Quảng Nghĩa ra phủ Hòa Nghĩa. Năm 1803 vua Gia Long trả phủ Hòa Nghĩa về tên cũ. Năm 1832 vua Minh Mạng thành lập tỉnh Quảng Ngãi. Sau CMT8-1945, chính quyền Việt Minh đổi tỉnh Quảng Ngãi thành tỉnh Lê Trung Đình. Năm 1955 chính thể VNCH gọi lại là tỉnh Quảng Ngãi.
Cuối năm 1975 Quảng Ngãi “khắc nhập” với Bình Định thành tỉnh Nghĩa Bình, thị xã Quảng Ngãi hợp nhất với huyện Tư Nghĩa thành thị xã Quảng Nghĩa, nghe cứ loạn cào cào! Từ giữa năm 1989 thì “khắc xuất” như cũ đến bi chừ.
Ủa, Quảng Ngãi hay Quảng Nghĩa?
Hán tự là 廣 義, trong đó Quảng 廣 là rộng lớn, Nghĩa 義 là nghĩa khí, Quảng Nghĩa là “nghĩa khí rộng lớn”. Cớ làm sao Nghĩa biến ra Ngãi? Là do biến âm theo phương ngữ. Dân ta từ ngoài Bắc vô đây lập nghiệp, bị nhiễm giọng người Chăm bản địa, phát âm méo mó hết cả. Thế là Nghĩa trại thành Ngữa, rồi Ngỡ, cuối cùng là Ngỡi. Người ta đọc Ngỡi mà ứ biết phải viết thế nào, tức mình viết béng là Ngãi. Tương tự, huyện Bình Sơn có cái vịnh Vũng Quýt, nói trại thế quái nào mà thành Dung Quất.
Quảng Ngãi có gì?
Có đủ thứ. Lủ khủ danh lam thắng cảnh như núi Ấn sông Trà sơn thuỷ hữu tình; bãi biển Sa Huỳnh cát vàng muối trắng; đảo Lý Sơn tỏi thơm cảnh đẹp, Thác Trắng Minh Long vừa trong vừa mát. Lúc nhúc món ngon như cá bống sông Trà, cúm núm Sa Huỳnh, nhum Châu Me chưa nghe đã thèm. Bát ngát di tích lịch sử như Thành cổ Châu Sa, Chùa Hang Lý Sơn, Di tích Đặng Thùy Trâm, Làng cổ Thiên Xuân, Thành cổ Quảng Ngãi, Khu di tích Mỹ Lai (Sơn Mỹ). Vân vân và mây mây.
Quảng Ngãi có ai?
Trước hết là có vua. Chủ tịch nước Trần Đức Lương quê Đức Phổ. Quý tử nhà ông là quan Nhất phẩm triều đình Trần Tuấn Anh, tự nguyện hưu non hạ cánh an toàn. Có quan tể tướng Phạm Văn Đồng quê Mộ Đức, là thủ tướng tại vị lâu vô địch: 32 năm (1955-1987). Có 2 quan Nhất phẩm khóa 7 Đỗ Quang Thắng quê Đức Phổ và Ng.Hòa Bình khóa 13 quê Nghĩa Hành.
Mở sử triều Nguyễn thấy có Khai quốc công thần Lê Văn Duyệt quê Mộ Đức. Là Tả tướng quân, ông và Hữu tướng quân Ng.Văn Thành là 2 cận thần của chúa Nguyễn Ánh. Ông có công to sau 2 lần giữ chức Tổng trấn Gia Định, được dân thờ như thành hoàng. Kế đến là Trương Định quê Sơn Tịnh. Dân suy tôn ai thì gắn cho người đó chữ Công, thế là thành Trương Công Định, kiểu như gọi Quang Vân Trường là Quan Công í mà.
Văn hóa nghệ thuật có thi sĩ Bích Khê quê Sơn Tịnh, thi sĩ Tế Hanh quê Bình Sơn cùng em ruột là nhạc sĩ Thế Bảo, nghệ sĩ điện ảnh Trà Giang sinh tại TP Quảng Ngãi, nhạc sĩ Trương Quang Lục (Sơn Tịnh), nhạc sĩ “chim sáo ngày xưa” Nhất Sinh (TP Quảng Ngãi), v.v.
Quảng Ngãi rất chi là nhiều tướng lĩnh. Riêng huyện Sơn Tịnh, chỉ tính trong 2 cuộc kháng chiến chống Pháp và Mỹ (1945-1975) đã phát sinh 13 vị tướng, đó là thượng tướng Trần Văn Trà (xã Tịnh Long); các trung tướng Ng.Chánh (Tịnh Hà), Ng.Đôn (Tịnh Bình), Trần Quý Hai (Tịnh Châu), Phạm Kiệt (Tịnh Minh), Phạm Nam Tào (Tịnh Minh), Võ Thứ (Tịnh Hà); các thiếu tướng Võ Bẩm (Tịnh Khê), Châu Khải Địch (Tịnh Hà), Lê Trung Ngôn (Tịnh Ấn), Phạm Quang Tiệp (Tịnh Sơn), Huỳnh Kim, Phạm Luận (Tịnh Minh).
Đại thể, Quảng Ngãi rất chi là xứng đáng. Mệt quá, tàm tạm thế thôi. Tui đến rồi nên tui biết. Hê hê hê!
ST: Có Hưởng

Thứ Năm, 20 tháng 2, 2025

Văn minh, theo cụ Phan Bội Châu


Kỳ Ngoại hầu Cường Để (đứng) và nhà cách mạng Phan Bội Châu

"Thời nay, người nước ta nói trong mắt không thấy có xe hơi, tàu thủy; trong tai không nghe tiếng súng Tây, pháo Tây, trong lòng không biết việc học theo Tây, kĩ xảo của Tây, thực không phải thế. Thế thì mắt thấy gì mà như mù, tai nghe gì mà như điếc, lòng biết gì mà như dại như say là tại sao?
Xét nguyên nhân thì một là người nước ta sống một cách nhớn nhác, hai là sống một cách dằng dai theo nếp cũ mà không chịu đổi mới. Các môn học như quang học, động học, hóa học, lí học khi nghiên cứu tới chúng thì cho rằng khó khăn vất vả, có bắt chước theo thì cũng lơ mơ, mù tịt. Người lớn tuổi ngày càng không còn mấy, người trẻ tuổi thì vợ con trói buộc. Xe hơi, tầu thủy để cho người khác làm cả, còn ta thì làm đầy tớ cho người Pháp. Súng Tây, pháo Tây để cho người Pháp làm, còn ta thì làm c.h.ó cho người Pháp.
Ta không có học thuật như Tây, nhưng cũng đường đường là một ông tiến sĩ, cử nhân Việt Nam! Ta không có kĩ nghệ như Tây, nhưng mà cũng đàng hoàng là người thông sự ở Phủ Toàn quyền, là người phán sự ở Tòa Công sứ! Suy ra như thế thì thấy rằng kiến thức, khả năng bàn luận của ta làm sao mà biết hỏi đáp được văn mình là cái gì? Vả lại mọi thứ vật dụng tinh xảo, bền đẹp, nếu mình không chế tạo ra thì ở trên trời rơi xuống chăng? Một cái đài cao đẹp nếu chẳng phải do xây đắp nên thì nó ở dưới biển trồi lên hay sao? Sự nghiệp văn minh nếu không từng bước thực hiện thì tự nó đến với mình sao được? Người ta có máy móc, sao ta không tự mình mà làm? Người ta biết đổi mới, sao chỉ riêng mình là cổ hủ? Viêc học tập tinh thông các nghề ở Anh, Nhật, Đức, Mỹ tuy nhanh cũng phải đến hai năm, ta cũng đừng cho đó là điều khó. Các khoa học về binh, công, nông, thương tuy họ học nhanh cũng phải đến năm năm, ta chớ cho rằng học tinh tường như thế mà chán nản.
Muốn học kĩ năng của các nước, trước hết phải học ngôn ngữ, văn học, luyện cách phát âm, cách nói của các nước đó thật nhuần nhuyễn đã, hoặc một năm, hoặc hai năm, nếu là người có chí thì phỏng có khó gì. Ta muốn lên vũ đài của văn minh, muốn hấp thụ hết những tinh túy của nước ngoài, đều phải tự mình đi khắp các kinh đô, đô thành của các nước, dù phải chịu cảnh đắt đỏ gạo châu củi quế, dù tốn kém tiền bạc thì người có sức lực há sợ gì tốn kém.
Ta muốn vượt lên trên chiến lũy của văn minh, nếu nước khác phải đi một tháng mới đến đích, thì ta phải gắng sức đi đến đích chỉ một vài tuần, người khác có đôi chân đi được ngàn dặm thì ta phải cố đi được vạn dặm. Mới đầu thì ta lấy họ làm thầy, sau ta sẽ lại làm thầy của họ. Nước Nhật Bản bân giờ, có khác gì nước Việt Nam ngày mai."
Đoạn văn trên cụ Phan Bội Châu viết vào năm 1907, ở cuốn Tân Việt Nam.

Thứ Tư, 19 tháng 2, 2025

Đường Kha Vạn Cân - Võ Văn Ngân (1989)

 


Thứ Bảy, 18 tháng 1, 2025

RỒNG RẮN LÊN MÂY



Hết năm Rồng đến năm Rắn. Nay rảnh, gõ mấy nhát.
Xưa, có vị khách lạ đến đầu làng, thấy lũ trẻ tắm truồng trong ao, bèn hỏi đường đến nhà quan Nghè Thứ. Một thằng bé 7-8 tuổi tồng ngồng nhảy lên bờ, hất hàm:
- Ông đến nhà quan Nghè Thứ chơi, hẳn ông là người giỏi chữ. Vậy cháu đố ông đây là chữ gì. Nói được, cháu chỉ nhà cho.
Rồi nó dạng 2 chân 2 tay ra. Vị khách trả lời ngay:
- Là chữ Đại chứ gì mà phải đố!
Thằng bé lắc đầu, nói to:
- Sai rồi! Đó là chữ Thái, hê hê hê!
Rồi nhảy ùm xuống ao, cùng lũ bạn cười hí hố. Chả là chữ Thái 太 giống chữ Đại 大 nhưng có dấu chấm ở dưới như cái của quý vắt vẻo của thằng bé.
Thằng bé đó tên là Lê Quý Đôn. Về đến nhà, thấy ông khách kia đang ngồi uống trà với cha mình, nó ngượng nghịu lí nhí chào. Khách nhận ra, bèn kể lại chuyện với ý khen ngợi. Quan Nghè Thứ cho thế là hỗn, bắt nó mang roi ra, nằm sấp lên phản. Khách rối rít xin tha, nhưng cũng muốn thử tài, bèn bảo Đôn:
- Nếu muốn khỏi đòn, cháu phải làm một bài thơ tạ tội.
Đôn ngẩng đầu thưa:
- Xin bác ra đề ạ.
- Năm nay là năm Tỵ, vậy ta ra đề là: Rắn đầu biếng học. Cháu phải làm thơ Nôm, thất ngôn bát cú, và phải hứa chăm học.
Trong chốc lát, Đôn ứng khẩu đọc luôn:
Chẳng phải liu điu cũng giống nhà
Rắn đầu biếng học lẽ không tha
Thẹn đèn hổ lửa đau lòng mẹ
Nay thét mai gầm rát cổ cha
Ráo mép chỉ quen tuồng lếu láo
Lằn lưng chẳng khỏi vệt dăm ba
Từ nay Trâu, Lỗ xin siêng học
Kẻo hổ mang danh tiếng thế gia.
Ông khách khiếp vía, thốt lên:
- Giỏi quá! Giỏi quá! Đúng là thần đồng.
Cậu bé đã đưa tên rắn vào từng câu thơ: rắn liu điu, rắn đầu, hổ lửa, mai gầm, rắn ráo, thằn lằn (người xưa tưởng là 1 loài rắn), hổ trâu, hổ mang. Đã thế, bài thơ còn dẫn cả điển tích về Khổng Tử và Mạnh Tử: nước Lỗ là quê Khổng Tử, nước Trâu là quê Mạnh Tử.
Bi chừ nói chuyện con rắn.
Hình tượng con rắn trơn tuồn tuột chui rúc vào các ngõ ngách văn hóa trên khắp quả đất, là biểu tượng của cả tốt và xấu, sự sống và cái chết, hủy diệt và tái sinh, dục vọng và tội lỗi. Nọc rắn làm thuốc chữa bệnh, thịt rắn bổ dưỡng, ngâm rượu tam xà, ngũ xà hay băm viên gói lá lốt làm chả thì hết sảy. Rắn còn diệt trừ địch hoạ và góp phần cân bằng sinh thái vì rất khoái món chuột tươi sống.
Xét về dịch lý, tháng Tỵ là tháng Tư âm lịch, bước vào mùa hè, vạn vật âm suy dương thịnh, rắn bắt đầu lột xác. Vì thế, mặc dù Tỵ thuộc âm hỏa, nhưng rắn lại tượng trưng cho dương khí. Trong ngày, Tỵ là lúc 10 giờ sáng, sương sớm đã tan, nắng ấm tràn trề. Về phong thuỷ, Tỵ là hướng nam- đông nam, phù hợp với hướng nhà. Về tử vi, người tuổi Tỵ hướng thượng, dám đương đầu với những việc quá sức mình và thường hoàn thành mỹ mãn. Tuổi Tỵ trầm tĩnh, dễ gây cảm giác lạnh lùng cho người mới tiếp xúc, nhưng có lửa bên trong, sẽ bùng cháy khi cần thiết.
Rắn cũng ngự trị trong đủ các loại tín ngưỡng và tôn giáo.
Truyền thuyết Hy lạp coi rắn là biểu tượng của thần chữa bệnh Asklepios, nên cả 2 ngành y và dược đều lấy con rắn là biểu hiệu: ngành y là rắn cuốn trên chiếc gậy, ngành dược thì rắn cuốn trên cái cốc (ly) có chân, nhả nọc vào cốc.
Người Việt có 2 truyền thuyết ngồ ngộ về rắn. Một là chuyện Ng.Trãi vô ý để gia nhân dọn vườn giết một tổ rắn, thế là bị rắn báo oán và lãnh án tru di tam tộc. Hai là sự tích con giao long (thuỷ thần) đội lốt học trò của Chu Văn An, cầm bút chấm mực vẩy lên trời để gọi mưa, cứu hạn cho dân.
Người Ả Rập coi rắn là đại diện cho sự khôn ngoan nhanh nhẹn và cả sự nguy hiểm, độc địa.
Hình tượng rắn Naga trong Hindu giáo tượng trưng cho thần Shiva. Naga, tiếng Phạn có nghĩa là rắn hổ mang chúa, cũng có nghĩa là hủy bỏ mọi tội ác.
Khi lây lan truyền nhiễm vào Phật giáo, Naga mọc thêm đầu. Naga 3 đầu tượng trưng cho Thiên- Địa- Nhân; 5 đầu ứng với Ngũ hành Kim, Mộc, Thủy, Hoả, Thổ; 6 đầu thì biểu trưng cho phái nữ, thể xác và sự chết chóc; 7 đầu là đắc đạo. Chả thế mà người Khmer dệt khăn ca-rô tượng trưng cho thần rắn, suốt ngày vắt vai quấn đầu để được phù hộ độ trì. Dân ta ở Nam Bộ bắt chước, gọi là khăn rắn, sau trại ra là khăn rằn. Kinh Phật viết rằng, hoàng hậu Maya hạ sinh thái tử Tất Đạt Đa tại vườn Lâm Tì Ni được rắn Naga 9 đầu phun nước tắm.
Nhàn cư vi bất thiện, tán phét mỏi tay quá. Chào cả nhà. Hê hê hê!
(Nguồn: Có Hưởng)


Thứ Tư, 1 tháng 1, 2025

Ôn cố tri tân: ý nghĩa hình vẽ trên cái ấm tích



Ý NGHĨA TRANH VẼ TRÊN CÁI BÌNH TÍCH TRÀ NGÀY XƯA!…
Ngày xưa, chắc nhà ai cũng có cái ấm trà Ông Thọ này...!
Đi kèm theo còn có bộ tách dĩa, thường đặt trên cái bàn dài trước bàn thờ Gia Tiên để rót nước trà mời khách...!
Theo tìm hiểu, một Chú lớn tuổi giải thích đó là bốn chữ:
“Tứ-Hỷ-Tề-Lai” (四喜齊來)
Bốn chữ mang ý nghĩa như sau:
1- Ông Thọ (壽):
Sống được lâu dài cùng con cháu...!
Đây là niềm vui thứ nhất.
2- Con Nai, chữ Nho là Lộc (鹿), đồng âm với lộc (祿): bổng lộc..!
Đây là niềm vui thứ hai.
3- Phía trên đầu con Nai có con Dơi. Chữ Nho gọi Dơi là Bức (蝠): Biên Bức (蝙蝠); chữ Bức (蝠), đồng âm với chữ Phúc (福)
Đây là niềm vui thứ ba: được hưởng Phúc, có Phước...!
4- Đứa Trẻ đang chơi với con Chim giống như con Vịt. Loài này sống trên nước; con Trống gọi Uyên (鴛), con Mái gọi là Ương (鴦).
Loài này sống có đôi, rất chung thủy, cho nên mong vợ chồng gắn bó lâu dài gọi là Uyên-Ương. Được như thế thì sanh con nối dõi tông đường, gia đình hạnh phúc. Đây là niềm vui thứ tư.
*Hình ảnh cô gái có lẽ biểu tượng cho sự tươi trẻ thanh xuân trong gia đình...! Một bình tích trà dùng để giải khát, để cùng mượn tách trà đàm đạo,... được mang theo ý nghĩa tốt đẹp của người xưa làm ra, họ mong muốn đến cho mọi gia đình...!
(nguồn: Thầy Hùng)
Cái ấm tích nhà tôi


Thứ Bảy, 15 tháng 6, 2024

ĐƠN KIỆN 1897 BẰNG QUỐC NGỮ



Một lá đơn kiện năm 1897 viết bằng chữ Quốc ngữ, do một người tên Quách Ấu sống ở tổng Thạnh An, thôn Xa Man (nay là Sóc Trăng)
Tổng thạnh an.
Thôn xa man.
Dân ban Triều Châu: Quách Ấu
Xin bẩm quan lớn được hiểu: hồi ngày mùng 2 tháng 2 năm bính thân. Tên Hỉa Ý, tên Thiên Bửu và tên Phụng Tống cùng ngụ làng Sa man có vay của tôi 120 đồng. Giao ước mãn năm thì trả 460 giạ lúa, sẽ trừ hết số bạc ấy. Có tên Kiên Đại làm giấy cho tôi.
Mà nay, 3 tên ấy không chịu trả lúa cho tôi. Nên tôi đến xin quan lớn bắt 3 tên đó tới Toà, xử nó trả 460 giạ lúa. Bằng nó không có trả xin phát mãi tài sản chúng. Nếu không có gia sản thì xin quan lớn bỏ tù nó!.
Kính đơn.
Ngày 13 tháng 2 năm 1897.
Quách Ấu

Thứ Tư, 17 tháng 4, 2024

GONE WITH THE WIND (CUỐN THEO CHIỀU GIÓ)





1936 novel by
Nữ tác giả Margarett Mitchell. Bà sinh năm 1900 tại Atlanta (bang Georgia, Mỹ).
Scarlett O'Hara là nhân vật chính. Người tình và là chồng cô Rhett Butler , một tay buôn súng.
Tôi có mua cả bộ tiểu thuyết này (hai tập). Thế rồi có 3 nữ s/v văn chương đến mượn. Họ chỉ đọc 3 ngày xong luôn. Tôi hỏi "Có hay không?". Hay lắm thầy ạ, bọn em rất cảm ơn thầy. Hay như thế nào? Dạ, bọn em chỉ đọc chỗ nào đôi ấy hôn nhau thôi.
Tôi rất buồn với câu trả lời ấy. Cả đời tôi chưa bao giờ yêu những cô con gái hời hợt, ẻo lả như vậy. Vợ tôi căn dặn: Từ nay không nên cho chúng nó mượn sách nữa. Chúng nó không hiểu biết. Đúng.
Cũng từ đó tôi không thích nghe những người nói văn hoa và dài dòng. Đầu óc họ rỗng tuếch.
Tác giả Margarett Mitchell không thuộc giới văn chương. Cô gái này là s/v y khoa chưa tốt nghiệp. Bố cô yêu cầu về điền trang làm thư kí, phụ trách nhiều vấn đề của trang trại. Mẹ qua đời sớm, toàn chị em gái.
Năm 1923 cô mới bắt đầu đặt bút viết "Gone with the Wind". Đến 1936 mới xong. 1939 được xây dựng thành Film.
Câu chuyện xẩy ra từ 1861 đến 1865. Đó là thời kì nước Mỹ vặn mình đứng dậy để đổi thay, để vươn ra TG. Ngài TT Mỹ Abraham Lincoln đã kí QĐ "Giải phóng nô lệ". Tức những người nô lệ da đen không còn là công cụ sản xuất nữa,mà họ trở thành công dân, bình đẳng trong xã hội.
Việc giải phóng nô lệ gây ra sự choáng váng cho 1/2 nước Mỹ ở miền nam. Phía bắc nặng về công nghiệp, phía nam làm nông nghiệp. Lúa, ngô, khoai, lạc, bông, đậu nành chín rục ngoài đồng không có người thu hoạch. Các nghị sĩ miền nam đòi chia đôi nước Mỹ để lập lại trật tự. Thế là nam-bắc Mỹ đánh nhau to. Máu đổ, đầu tơi, tp, làng mạc bị đạn xới tung.
Một hôm cô Scarlett O'Hara hỏi anh yêu Rhett Butler rằng: "Anh thích bên nào thắng? Bắc hay nam". Rhett Butler tươi cười trả lời: "Theo anh thì càng đánh nhau càng hay. Anh buôn súng đạn nên rất cần có chỗ bán".
Đó là kim chỉ nam cho nước Mỹ. "Mỹ cần có một số điểm nóng trên TG để bán vũ khí".
Gia đình cô Scarlett O'Hara bị khánh kiệt. Chị em phải đào khoai ngoài đồng về ăn tạm. Miền nam thua cuộc. Ngai TT Mỹ Abraham Lincoln ra lệnh: "Không được bắn súng ăn mừng. Khi đoàn tù binh đi qua phải ngả mũ chào, vì họ đều người Mỹ".
Chiến tranh kết thúc nhưng bọn quý tộc miền nam vẫn cay cú. Sạt nghiệp. Chúng bắn chết ngài Abraham Lincoln. Đó là vụ ám sát TT đầu tiên tại Hoa Kì.
Gia đình cô Scarlett O'Hara cũng tan hoang theo. Các con đều chết, anh chị chia tay.
"Cũng đừng thắm lắm chóng phai
Thoang thoảng hoa nhài mà lại thơm lâu".
(NOTES. Các quý tộc điền trang khánh kiệt là một phần "tự truyện"
Giống Nguyên Hồng viết Bỉ Vỏ. Một cô gái xinh đẹp vùng ngoại ô HP được một chàng trí thức đẹp trai mặc đồ tây yêu mến. Khi cô có chửa bụng to dần thì không thấy anh ấy đâu nữa. Cả làng, cả họ ruồng bỏ. Cô phải đi ăn cắp để sống. Năm Cam đã bày cho cô hành nghề. Năm Cam bị CS bắn chết. Cô Tám Bính chuyển sang làm đĩ nuôi con. Đó chính là Nguyên Hồng.
Bộ tiểu thuyết "Tiếng chim hót trong bụi mận gai" (The Thorn bird)
là câu chuyện "tự truyện" của cô Y tá Úc yêu cha cố. Có con cùng nhau)
ST

Chữ quốc ngữ ra đời lúc nào?





Như vậy, có thể khẳng định rằng chữ quốc ngữ ra đời có một quá trình dài từ năm 1618 cho đến 1625 với sự hợp tác của nhiều người chứ không chỉ một người. Và đa số "tác giả" của chữ quốc ngữ đều là người Bồ Đào Nha, người Ý cùng với một số người Việt theo đạo Thiên Chúa góp sức.
Và người được xác định "giỏi tiếng Việt nhứt" và có công lớn nhứt trong việc sáng tạo ra chữ quốc ngữ chính là giáo sĩ Francesco de Pina người Bồ Đào Nha.
Francesco de Pina đến Hội An đầu năm 1617, thành lập trú sở Nước Mặn năm 1618, rồi thành lập trú sở Thanh Chiêm (tức Kẻ Chàm, Dinh Chàm) năm 1623. Từ năm 1619, Pina đến cư trú tại Thanh Chiêm và cuối năm 1625 ông chết đuối trên biển Cù Lao Chàm do vướng áo chùng không bơi được khi thuyền lật.
Thi thể ông được chôn ở sau nhà thờ Phước Kiều (nay là nhà thờ Thánh Andre), thuộc thôn Thanh Chiêm 1, xã Điện Phương, huyện Điện Bàn, tỉnh Quảng Nam. Đây là nhà thờ do chính ông thành lập khi đến cư trú tại Thanh Chiêm và là nơi trú ngụ của nhiều giáo sĩ khác, trong đó có Đắc Lộ.
Sau khi ông mất, một học trò tiếng Việt của ông là giáo sĩ Alexandre de Rhodes (Đắc Lộ) đến Đàng Trong năm 1624, đã ôm tất cả những di cảo của thầy mang về Macau vào năm 1626. Tại Macau thuở ấy còn có hai giáo sĩ cũng chăm chú nghiên cứu chữ quốc ngữ và đã soạn thảo hai cuốn tự điển Việt-Bồ-La và Bồ-Việt.
Đó là hai giáo sĩ Gaspar d’Amaral và Antonio Barbosa cư trú ở Macau gần 10 năm. Đáng tiếc là công trình của họ chưa kịp công bố thì tháng 2-1646 Gaspar mất trên đường biển đi đến nước ta và sau đó một năm thì Barbosa cũng mất vì bệnh.
Trong lời nói đầu cuốn Tự điển Việt - Bồ - La của mình, Đắc Lộ có nhắc đến việc "tham khảo" tài liệu của hai giáo sĩ trên, cho thấy Đắc Lộ đã thừa hưởng những di sản được người khác sáng tạo ra để góp phần hoàn thành cuốn tự điển có tiếng Việt đầu tiên trên thế giới.
Điều đáng tiếc là hiện nay vẫn chưa tìm thấy hai cuốn tự điển của Gaspar và Barbosa đã viết. Rất mong số phận của nó giống như cuốn tự điển của Bá Đa Lộc, tưởng đã cháy mất trong một trận hỏa hoạn ở Cà Mau nhưng lại được tìm thấy vào thập niên 1980.
Nguồn: PGS. TS Tạ Khắc Cư

5 LOẠI NGƯỜI CẦN TRÁNH

1/Người bất hiếu. Kẻ dám quay lưng với cha mẹ thì với bạn chả có ý nghĩa gì 2/Người sống 2 mặt. Họ trở mặt nhanh hơn cả thời tiết 3/Kẻ vô ơn...