Tổng số lượt xem trang

Hiển thị các bài đăng có nhãn Lịch Sử. Hiển thị tất cả bài đăng
Hiển thị các bài đăng có nhãn Lịch Sử. Hiển thị tất cả bài đăng

Thứ Ba, 27 tháng 5, 2025

NƯỚC TA TỪNG CÓ TÊN LÀ “ ĐẠI NGU “




TÊN GỌI CỦA NƯỚC TA QUA CÁC THỜI KỲ :
1. Xích Quỷ - Tên nước ta thời vua Kinh Dương Vương:
Theo truyền thuyết, các tài liệu và thư tịch cổ, năm 2879 Trước Công nguyên, Kinh Dương Vương lên ngôi vua, lập lên Nhà nước Xích Quỷ - nhà nước sơ khai độc lập có chủ quyền đầu tiên của dân tộc ta. Kinh Dương Vương kết duyên với Thần Long sinh ra Lạc Long Quân (tên húy là Sùng Lãm). Sau đó, Lạc Long Quân kết duyên với Âu Cơ sinh ra các vua Hùng.
2. Văn Lang - Tên nước ta thời các Vua Hùng: Từ đầu thời đại đồng thau, có khoảng 15 bộ Lạc Việt sinh sống chủ yếu ở miền trung du và đồng bằng Bắc Bộ. Trong số các bộ lạc Lạc Việt, bộ lạc Văn Lang hùng mạnh hơn cả. Thủ lĩnh bộ lạc này là người đứng ra thống nhất tất cả các bộ lạc Lạc Việt, dựng lên Nhà nước Văn Lang, xưng vua - mà sử cũ gọi là Hùng Vương, kinh đô đặt ở Phong Châu.
Quốc hiệu Văn Lang mang ý nghĩa gì? Hiện nay có nhiều cách giải thích khác nhau. Văn Lang nghĩa là cội nguồn văn hóa mang sức mạnh lan tỏa. Thời gian tồn tại của nước quốc hiệu Văn Lang tồn tại khoảng 2.671 năm khoảng từ đầu thiên niên kỷ I trước Công nguyên đến thế kỷ III trước Công nguyên.
3. Âu Lạc - Tên nước ta thời vua An Dương Vương:
Sau khi khiến Tần Thủy Hoàng phải lui quân chịu thất bại trong âm mưu xâm lược nước ta vào năm 208 trước công nguyên, Thục Phán bằng ưu thế của mình đã xưng vương (An Dương Vương), liên kết các bộ lạc Lạc Việt và Âu Việt lại, dựng nên nước Âu Lạc (tên ghép hai chữ của hai bộ lạc Âu Việt và Lạc Việt). Quốc hiệu Âu Lạc tồn tại 50 năm từ 257 trước CN đến 207 trước CN.
4. Vạn Xuân - Tên nước ta thời nhà tiền Lý và nhà Ngô:
Vào mùa Xuân năm 542, Lý Bí khởi nghĩa, đánh đuổi quân Lương, giải phóng được lãnh thổ. Đến tháng 2 năm 544, Lý Bí lên ngôi Hoàng đế, lấy tên hiệu là Lý Nam Đế, đặt quốc hiệu là Vạn Xuân (Với ý nghĩa đất nước bền vững vạn mùa Xuân), khẳng định niềm tự tôn dân tộc, tinh thần độc lập và mong muốn đất nước được bền vững muôn đời.
Chính quyền Lý Bí tồn tại không lâu thì thất bại, nước ta rơi vào vòng đô hộ của các triều đại Trung Quốc (từ năm 602). Quốc hiệu Vạn Xuân trải qua nhiều thăng trầm và được khôi phục sau khi Ngô Quyền đánh tan quân Nam Hán bằng chiến thắng Bạch Đằng năm 938.
5. Đại Cồ Việt - Tên nước ta thời nhà Đinh: Năm 968, Ðinh Bộ Lĩnh dẹp yên loạn 12 sứ quân cát cứ, thống nhất đất nước, lên ngôi Hoàng đế và cho đổi quốc hiệu là Ðại Cồ Việt (Đại nghĩa là lớn, Cồ nghĩa là lớn, do đó tên nước ta có nghĩa là nước Việt lớn). Ta cũng thấy lần đầu tiên yếu tố “Việt” được có trong quốc hiệu.
Tên nước Đại Cồ Việt tồn tại 86 năm (968-1054) trải qua suốt đời Ðinh (968-979), Tiền Lê (980-1009) và đầu thời Lý (1010-1053).
6. Đại Việt - Tên nước ta thời nhà Lý, nhà Trần: Năm 1054, nhân điềm lành lớn là việc xuất hiện một ngôi sao sáng chói nhiều ngày mới tắt, nhà Lý (Lý Thái Tông) liền cho đổi tên nước thành Đại Việt (nước Việt lớn, yếu tố “Việt” tiếp tục được khẳng định), và quốc hiệu Đại Việt được giữ nguyên đến hết thời Trần thì bị thay đổi.
7. Đại Ngu - Tên nước ta thời nhà Hồ: Tháng 3 năm 1400, Hồ Quý Ly phế vua TrầnThiếu Đế lập ra nhà Hồ và cho đổi tên nước thành Đại Ngu (“Ngu” tiếng cổ có nghĩa là “sự yên vui”). Quốc hiệu đó tồn tại cho đến khi giặc Minh đánh bại triều Hồ (tháng 4/1407).
8. Đại Việt - Lại được sử dụng làm quốc hiệu nước ta vào thời kỳ Hậu Lê và nhà Tây Sơn: Sau 10 năm kháng chiến (1418-1427), cuộc khởi nghĩa chống Minh của Lê Lợi toàn thắng. Năm 1428, Lê Lợi lên ngôi, đặt tên nước là Ðại Việt (lãnh thổ nước ta lúc này về phía Nam đã tới Huế). Quốc hiệu Ðại Việt được giữ qua suốt thời Hậu Lê (1428-1787) và thời Tây Sơn (1788-1802).
Tính cả nhà Lý, Trần, Hậu Lê vàTây Sơn, quốc hiệu ĐẠI VIỆT của nước ta tồn tại 748 năm (1054-1804).
9. Việt Nam - Tên nước ta thời Nhà Nguyễn tính từ năm 1804-1884:
Năm 1802, Nguyễn Ánh lên ngôi vua và sau đó cho đổi tên nước là Việt Nam. Sách Đại Nam thực lục chép: “Giáp Tý, Gia Long năm thứ 3 (1804), tháng 2, ngày Đinh Sửu, đặt Quốc hiệu là Việt Nam, đem việc cáo Thái Miếu. Xuống chiếu bố cáo trong ngoài”.
Tên gọi Việt Nam mang ý nghĩa chỉ quốc gia của người Việt ở phương Nam để phân biệt với quốc gia của những người ở phương Bắc.
Quốc hiệu Việt Nam tồn tại 80 năm (1804-1884, đến năm 1884 Pháp hoàn thành “bình định” nước ta, xoá tên Việt Nam mà chia cắt nước ta thành 3 kỳ: Tonkin - Bắc Kỳ, Annam - Trung Kỳ, Cocochine - Nam Kỳ). Tuy nhiên, hai tiếng "Việt Nam" lại thấy xuất hiện khá sớm trong lịch sử nước ta như là trong các tài liệu, tác phẩm của trạng nguyên Hồ Tông Thốc (cuối thế kỷ 14), Nguyễn Trãi (đầu thế kỷ 15), trạng Trình Nguyễn Bỉnh Khiêm (1491-1585),...
10. Đại Nam - Tên nước ta thời vua Minh Mạng nhà Nguyễn: Đời vua Minh Mạng (1820-1840), quốc hiệu được đổi thành Ðại Nam (mang ý nghĩa nước Nam lớn). Dù vậy, hai tiếng "Việt Nam"vẫn được sử dụng rộng rãi trong các tác phẩm văn học, trong nhiều giao dịch dân sự và quan hệ xã hội. Quốc hiệu này tồn tại trên lý thuyết 107 năm từ năm 1838 đến năm 1945.
11. Việt Nam Dân chủ Cộng hoà - Tên nước ta trong thời kỳ kháng chiến chống Pháp và chống Mỹ (1945-1975):
Ngày 19/8/1945, Cách mạng Tháng Tám thành công, lật đổ hoàn toàn ách thống trị phong kiến và thực dân, mở ra một kỷ nguyên mới. Ngày 02/9/1945, Chủ tịch Hồ Chí Minh đọc Tuyên ngôn độc lập, khai sinh nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà.
Quốc hiệu này khác với các quốc hiệu khác ở chỗ gắn với thể chế chính trị (dân chủ cộng hòa) thể hiện bản chất và mục đích của nhà nước là quyền dân chủ, tự do, công bằng cho tất cả mọi người.
12. Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam - Tên nước ta từ năm 1976 đến nay:
Ngày 30/4/1975, miền Nam được giải phóng, đất nước được thống nhất. Ngày 02/7/1976, trong kỳ họp đầu tiên của Quốc hội nước Việt Nam thống nhất, toàn thể Quốc hội đã nhất trí lấy tên nước là Cộng hoà Xã hội chủ nghĩa Việt Nam.
Quốc hiệu này, cũng như quốc hiệu trước đó, gắn với thể chế chính trị (Cộng hòa xã hội chủ nghĩa) và mang ý nghĩa thể hiện mục tiêu vươn tới một xã hội tốt đẹp hơn.
……
( Sưu tầm )

Thứ Bảy, 29 tháng 3, 2025

Đặt tên cho quê hương, sao người ta đơn giản mà hay tuyệt, còn ta càng bàn càng rối



Từ Dũng Phan
1.Bờ sông Sài Gòn được chia ra ba đoạn. Đầu tiên là Bến Bạch Đằng, thứ đến là Bến Chương Dương, và cuối cùng là Bến Hàm Tử. Đó là gì? Vâng, là những trận thuỷ chiến trong lịch sử chống quân Nguyên Mông của quan quân nhà Trần vào thế kỷ 13. Riêng Bến Bạch Đằng lớn nhất thì có ở đó là bức tượng của vị quốc công tiết chế Trần Hưng Đạo chỉ tay ra bờ sông. Vậy bạn có nhớ ở bên kia bờ sông là bến gì không? Bến Vân Đồn - nơi Trần Khánh Dư đánh tan đoàn thuyền lương của Trương Văn Hổ, cũng là một trận thuỷ chiến thời đó.
2. Bạn hẳn đều ít nhiều nghe đến cái tên Nguyễn Thái Học, một trong số những người sáng lập Việt Nam Quốc dân đảng và lãnh đạo cuộc khởi nghĩa Yên Bái. Nhưng bạn có biết vợ của Nguyễn Thái Học không? Từ cầu Ông Lãnh đổ xuống, bạn sẽ đi trên đường Nguyễn Thái Học, và bạn sẽ gặp phu nhân của người. Đó là Cô Giang. Song song với đường Cô Giang là đường Cô Bắc. Nguyễn Thị Giang (tức Cô Giang) là vợ Nguyễn Thái Học, và Nguyễn Thị Bắc (tức Cô Bắc) là chị của Cô Giang.
3. Điện Biên Phủ là một con đường huyết mạch tại Sài Gòn ai ai cũng biết. Nhưng không mấy ai biết tên con đường này trước 1975 là đường gì. Đó là đường Phan Thanh Giản - tên của vị đại thần nhà Nguyễn đã ký bản hiệp ước cắt 3 tỉnh Nam Kỳ cho Pháp. Ông chịu án oan trăm năm mà chỉ được gột rửa trong chục năm trở lại đây. Sau năm 1975, tên đường Phan Thanh Giản đổi thành đường Điện Biên Phủ, đưa ông về quên lãng. Tuy nhiên ít ai biết rằng, sự tinh tế của vị đặt tên đường ấy vẫn để lại những dấu hiệu. Đó là người con của ông: Phan Liêm, Phan Tôn vẫn ở đó. Hai con đường ngắn, nhỏ, đặt song song, như ở cạnh hầu hạ cho linh hồn của người cha oan khuất bi kịch của mình. Ngày ngày, khi đi từ cầu Sài Gòn xuống mà muốn về nhà thờ Đức Bà, chúng ta sẽ rẽ vào Võ Thị Sáu, và quẹo vào một con đường nhỏ cắt qua Điện Biên Phủ. Con đường nhỏ ấy chính là đường Phan Liêm. Nhưng cha ông thì không còn đó nữa.
4. Phan Thanh Giản đỗ tiến sĩ và ra làm quan dưới triều Minh Mạng, vậy thì đương nhiên phải có đường Minh Mạng trước đó rồi đúng không. Vậy đường Minh Mạng ở đâu nhỉ? Đấy là đường Ngô Gia Tự hôm nay. Một con đường xứng đáng với tầm vóc của Minh Mạng: to, đẹp với 3 hàng cây rợp bóng mát, mang cái hùng tâm tráng chí của bậc đế vương tham vọng nhất nhì lịch sử Việt Nam. Và vị đại tướng của ông, người gánh trách nhiệm chinh chiến ở Campuchia là tướng Trương Minh Giảng, đó sẽ là một con đường nối dài từ quận này sang quận khác, như công tích vĩ đại kéo qua 2 nước, nhưng hẹp, hệt số phận bi kịch khi trở về. Con đường ấy hôm nay là đường Lê Văn Sỹ-Trần Quốc Thảo.
5. Tương tự con đường Trương Minh Giảng là con đường Gia Long. Đường Gia Long và đối thủ không đội trời chung của ông là Nguyễn Huệ có sự nghiệp thể hiện qua tên đường. Đường Gia Long tuy hẹp nhưng dài, đường Nguyễn Huệ tuy to, nhưng ngắn, như số phận của vị anh hùng dân tộc đánh đông dẹp bắc, công tích rực rỡ mà tuổi thọ ngắn ngủi. Đường Gia Long hôm nay là đường Lý Tự Trọng. Ở phía đầu đường Gia Long là nhóm những vị khai quốc công thần của ông, đó là đường Lê Văn Duyệt (nay là đường Cách Mạng Tháng Tám), đấy là đường Võ Tánh (Nguyễn Trãi Quận 1), Ngô Tùng Châu (nay là Lê Thị Riêng), quân sư Đặng Đức Siêu (đổi tên thành đường Nam Quốc Cang).
6. Một số cái tinh tế khác như đường Lê Lai nhỏ nằm cạnh đường Lê Lợi lớn, đường Sư Vạn Hạnh âm thầm nối gót cho đường Lý Thái Tổ, giúp rập Lý Công Uẩn lập ra nhà Lý. Khu vực người Hoa chợ Lớn thì rặt các con đường của những vị hiền triết của Trung Hoa như Trang Tử, Khổng Tử hay các vị người Hoa đã có công mở cõi như Mạc Cửu, Mạc Thiên Tích…. Còn ở Quận 1 ta thấy Nguyễn Trung Trực, Thủ Khoa Huân, Trương Công Định…các vị khởi nghĩa chống Pháp thì sát sạt nhau. Các vị nữ sĩ Bà Huyện Thanh Quan, Đoàn Thị Điểm, Hồ Xuân Hương khéo làm sao cũng ở bên nhau. Cách đó một khúc lại là cụm Bùi Thị Xuân, Huyền Trân Công Chúa và Sương Nguyệt Anh. Trong khi những vị trạng nguyên như Lê Quý Đôn, Phùng Khắc Khoan, Lê Văn Hưu, Mạc Đĩnh Chi là các con đường song song bàn cờ. Và hai danh nhân góp phần xây dựng nên chữ Quốc Ngữ là Hàn Thuyên và Alexandre de Rhodes thì lại song song nhau bên cạnh.
7. Ở phía bến xe miền Tây lại thuộc về thuở lập quốc của thuỷ tổ dân tộc. Đầu tiên là Hồng Bàng đúng không? Kế đó là Kinh Dương Vương, Hùng Vương, rồi An Dương Vương. Xa xa là những Triệu Quang Phục, Bà Triệu. Đủ rồi chăng? Hehe. Chưa hết, còn một con đường nữa là đường Triệu Đà thưa các bạn. Đường Triệu Đà hôm nay chính là đường Ngô Quyền. Thực ra trước năm 1975, đường Ngô Quyền-Triệu Đà nằm trên một trục. Như cái sự chấm dứt 1000 năm Bắc Thuộc mà Tiền Ngô Vương đã đem lại cho dân tộc vậy.Triệu Đà dẫu không còn, nhưng đi về thêm một chút nữa bạn sẽ lại gặp đường Lữ Gia, vị tể tướng người Thanh Hoá thời Triệu Đà.
8. Không chỉ có lịch sử, mà còn có những cái hay khác. Đi qua Bộ Y Tế thì là đường Hồng Thập Tự (nay gọi là đường Nguyễn Thị Minh Khai), đường Tự Do, Công Lý, Dân Chủ, Cộng Hoà, Thống Nhất thì được ở cạnh nhau như nói lên khát vọng nhân bản cao đẹp. Đặc biệt đường Công Lý thì quy tắc phải một chiều (vì có Công Lý nào tráo trở đâu). Đường Lục Tỉnh, đường Hậu Giang, đường Tháp Mười thì ở cạnh nhau. Rồi, quay về phía khu Bắc Hải là ta gặp một loạt cụm đường mang những địa danh của dân tộc đã đi vào huyền sử: Trường Sơn, Bạch Mã, Ba Vì, Đồng Nai, Cửu Long.
9. Lòng dân cũng là một trang sử mộc mạc.Tôi kể câu chuyện nhỏ, có một lần hai vợ chồng tôi đi ăn cháo lòng trên đường Võ Thị Sáu - Quận 3. Lúc ngồi xuống bàn, tôi thấy pass wifi là "hienvuong". Hiền Vương chính là tên con đường này trước 1975, là tên nhân gian gọi chúa Nguyễn Phúc Tần, ông là vị chúa thứ 4 của dòng chúa Nguyễn trong thời Trịnh - Nguyễn phân tranh, là người có công mở rộng lãnh thổ về phía Đồng Bằng Sông Cửu Long. Hiền Vương Nguyễn Phúc Tần còn là người đã tiếp nhận những đoàn thuyền của Dương Ngạn Địch, Trần Thượng Xuyên từ nhà Minh đi xuống, để họ tiến hành khai khẩn và tạo nên Cù Lao Phố, Mỹ Tho. Không có ông tạo nền tảng, sẽ không có Sài Gòn Chợ Lớn TPHCM sầm uất như ngày hôm nay.Chúa Nguyễn Phúc Tần còn là một nhân vật hùng bá ở trên biển. Ông có tham vọng đánh ra Bắc phía chúa Trịnh, và từng đuổi quân Anh, quân Hà Lan...khi họ dám bắt người và xâm phạm bờ cõi Đàng Trong.Sau năm 1975, đường Hiền Vương trở thành đường Võ Thị Sáu. Tuy nhiên như đã nói ở trên, lòng dân là một trang sử mộc mạc. Dẫu bị đổi thay thế nào, dẫu sử sách có quên lãng và các vấn đề chính trị đã xô đẩy họ rời khỏi trang sách, thì nơi đây, lòng dân vẫn biết cách để nhớ về, dù chỉ bằng một cái pass wifi ngắn ngủi.
10. Người tạo nên kiệt tác lịch sử với các câu chuyện tôi kể trên kia là … một công chức. Ông là Trưởng Phòng Họa Đồ thuộc Tòa Đô Chánh Saigon. Bộ phận được lệnh gấp rút thay thế toàn bộ tên đường từ tên Pháp qua tên Việt trong khoảng thời gian ngắn nhất, sau khi tổng thống Ngô Đình Diệm nắm quyền. Tên ông là Ngô Văn Phát, Nhà văn – bút hiệu Thuần Phong, sinh ngày 16 tháng 10 năm 1910 tại huyện Vĩnh Lợi, tỉnh Bạc Liêu.
Để xây dựng nên công trình lịch sử thập phần tinh tế này, ông cần 3 tháng.
3 tháng cho một đời !
Copy fb Hoàng Linh .

Thứ Hai, 24 tháng 3, 2025

KHÔNG CHĂM THÌ LƯỜI (Ninh Thuận)




Nghe đồn, Ninh Thuận sẽ tan biến vào Khánh Hoà. Mảnh đất cuối cùng của người Chăm, liệu có còn địa danh nào sống sót hay không?
Hồi nhỏ, đọc thơ Chế Lan Viên thấy người Hời than khóc nỗi mất nước, nhớn lên thấy báo chí ghi là người Chàm, tháp Chàm. Rồi bỗng dưng nghe nói phải gọi là Chăm mới chính danh. Không chăm thì lười, có sao đâu. Hể?
Xưa, biên giới phía bắc của người Chăm ở tận Thanh- Nghệ- Tĩnh. Sau mấy thế kỷ tranh chấp lằng nhằng, năm 1611 đất Chăm chỉ còn từ đèo Cả tới sông Cà Ty (chảy qua TP Phan Thiết). Đến TK17, vùng đất này gọi là vương quốc Panduranga, đóng đô ở TP Phan Rang- Tháp Chàm. Sang TK18, bị lấn tiếp, họ dời đô vào Phan Rí. Sang TK19, để đền đáp công lao người Chăm đã tham gia đánh Tây Sơn, vua Gia Long cho tái lập tiểu quốc Panduranga, hưởng quy chế tự trị. Minh Mạng lên ngôi, bỏ quyền tự trị, đổi tiểu quốc Panduranga ra trấn Thuận Thành.
Năm 1832 thành lập tỉnh Bình Thuận, gồm 2 phủ Hàm Thuận và Ninh Thuận. Như vậy, danh xưng Ninh Thuận xuất hiện dưới gầm trời từ năm 1832.
Năm 1901 thành lập tỉnh Phan Rang trên địa phận Panduranga, tỉnh lị cũng mang tên Phan Rang, là phiên âm từ chữ Panduranga. Như vậy, tỉnh Phan Rang xuất hiện trên thế gian từ năm 1901.
Năm 1976 Phan Rang sáp nhập với Bình Thuận và Bình Tuy thành tỉnh Thuận Hải. Năm 1977 giải thể thị xã Phan Rang, đến 1981 tái lập nhưng mang tên mới: thị xã Phan Rang- Tháp Chàm. Năm 1991 tái lập tỉnh Ninh Thuận, tỉnh lị là thị xã Phan Rang- Tháp Chàm. Năm 2015 thị xã này được nâng cấp lên thành phố.
Ninh Thuận có gì?
Có khí hậu khô nóng nhất và lượng mưa trung bình ít nhất cả nước. Nguồn nước ngầm trong tỉnh chỉ bằng 1/3 mức bình quân cả nước. Chả thế mà Ninh Thuận được mệnh danh là Vùng đất của nắng và gió.
Là tỉnh có nhiều người Chăm nhất Việt Nam (nhì là tỉnh An Giang), được coi là trung tâm của nền văn hoá Chăm ở Việt Nam với hệ thống tháp Chăm gần như nguyên vẹn và còn duy trì nghề truyền thống của người Chăm, tiêu biểu là Làng gốm Bàu Trúc và Làng thổ cẩm Mỹ Nghiệp. Hiện có 4 hiện vật được công nhận là Bảo vật quốc gia: bia Phước Thiện, tượng Pô Klong Garai và bia Hoà Lai.
Là tỉnh có đàn cừu đông đảo nhất Việt Nam. Xưa, người Chăm mang từ Ấn Độ về nuôi thử, thấy OK vì cái gì nó cũng xơi, kể cả xương rồng, lại chịu được cái nắng hạn kinh hoàng nơi đây. Hầu hết người Chăm theo đạo Hồi không ăn thịt lợn, còn lại theo đạo Bà-la-môn không ăn thịt bò, nên họ chén thịt cừu. Thế là cừu sinh sôi nảy nở tưng bừng. Tui ăn rồi, ngon cực!
Ninh Thuận là tỉnh có quy mô trồng nho nhiều nhất nước ta. Bát ngát, lúc lỉu, ngọt lừ.
Anh hùng có Pinăng Tắc (1910-1977) chuyên xài bẫy đá đánh giặc. Nhạc sĩ có Nguyễn Ánh 9 (1940-2016) với lời từ chối phũ phàng: “Không! Không! Tôi không còn, tôi không còn yêu em nữa”. Ca sĩ có Chế Linh (sinh 1942), người Chăm, là 1 trong 4 giọng ca nam nổi đình đám nhất của nhạc vàng, cùng với Duy Khánh, Nhật Trường và Hùng Cường. Nhạc sĩ người Chăm Từ Công Phụng (sinh 1942) nổi danh với ca khúc “Bây giờ mấy tháng rồi hỡi em”, í lộn: tháng mấy rồi hỡi em. Hoạ sĩ Đỗ Quang Em (1942-2021) có bức tranh Ấm và tách trà, năm 1995 bán đấu giá được 50.000 USD, cao nhất thời đó. Po Dharma (1945-2019) là tiến sĩ người Chăm (cực hiếm), nhà nghiên cứu văn hoá sử Chămpa nổi tiếng. Vân vân và mây mây.
Ninh Thuận là quê của tổng thống VNCH Nguyễn Văn Thiệu, nay vẫn còn ngôi nhà của cha mẹ ổng, cũng là nơi ổng sinh ra và lớn lên. Ai đã tham quan dinh Độc Lập, ghé vào phòng Tổng thống trên tầng 2 sẽ thấy sau ghế ổng treo bức tranh to đùng vẽ bờ biển Ninh Chữ cong cong.
Cách nhà cha mẹ ổng không xa, lưng chừng núi có tảng đá to hình lưỡi dao bầu chĩa lên trời, gọi là núi Đá Dao. Dưới 1 tí có tảng đá nham nhở trông như mặt con quỷ dữ, gọi là đá Mặt Quỷ. Ngày 6-1-1975 Phước Long thất thủ, đêm đó sét đánh cái rầm vào hòn Đá Dao khiến nó vỡ đôi, lăn lông lốc xuống, va vào đá Mặt Quỷ, vỡ một mảnh rồi cùng lăn xuống chân núi. Thầy bói phán: Ông Thiệu tới số rồi!
Tiết Kinh trập (sâu nở) xuân 1975, vùng Văn Sơn, Bình Sơn, Khánh Hải, Ninh Chữ đột nhiên xảy ra trận thiên địch lớn chưa từng thấy. Ti tỉ con sâu bọ các loại dày đặc, lúc nhúc chui từ núi ra, hết đợt này đến đợt khác. Chúng bò lổm ngổm thành những tấm thảm vô tận, tràn qua đường sá, ruộng vườn. Tràn đến đâu, cỏ cây hoa màu sạch bách đến đấy. Tỉnh trưởng cho lính chở mấy xe dầu cặn ra phun rồi đốt mà không ăn thua. Sáng hôm sau, lũ sâu bỗng dưng biến mất tăm mất tích. Thế mới kỳ. Thầy bói lại phán: Vận ông Thiệu đã hết!
Ngày 2-4-1975 Nha Trang thất thủ, lính tráng tháo chạy chạy vào Phan Rang. Thấy khu mộ ông bà tổ tiên của Thiệu hơi bị hoành tráng, họ điên tiết tương mấy trái lựu đạn, bung bét hết cả. Thầy bói phán tiếp: Vận ông Thiệu hết thật rồi!
Đại tướng Mỹ Weyand sang giải nguy, thiết lập Phòng tuyến Phan Rang, cử trung tướng Nguyễn Vĩnh Nghi làm tư lệnh. Tối 16-4-1975 phòng tuyến vỡ tan, Nghi và chuẩn tướng Phạm Ngọc Sang, tư lệnh sư đoàn 6 không quân, bị bắt sống khi đang chui rúc trong công sự. Sư đoàn này đóng ở sân bay Thành Sơn, nơi phi đội A37 của QGP xuất kích đi đánh bom sân bay Tân Sơn Nhất chiều 28-4-1975.
Biển Ninh Thuận đẹp đáo để. Cả 4 bãi biển đẹp nhất tỉnh là Bình Tiên, Ninh Chữ, Bình Sơn, Cà Ná đều đã in dấu chân cái lão tui.
Tỉnh Ninh Thuận đã từng có 2 dự án Nhà máy điện hạt nhân, tổng công suất trên 4.000 MW, âm mưu khởi công năm 2020. Đùng 1 phát, thảm họa Fukushima năm 2011 xảy ra, các đấng lãnh đạo của ta khiếp vía, bèn stop. Nay, nghe đồn rậm rịch làm trở lại.
Đến Ninh Thuận mà không lượn qua thủy điện Đa Nhim để ngắm 2 cái ống to đùng từ hồ trên cao dẫn nước xuống thì coi như chưa đến Ninh Thuận.
Chuyện rằng, tháng 9-1951 tại Hội nghị San Fracisco (Cựu Kim Sơn), thủ tướng QGVN Trần Văn Hữu đòi Nhật Bản bồi thường chiến tranh 2 tỉ USD (thời giá 1945 đấy nhé). Khoản tiền kinh hoàng này khiến Nhật giả vờ điếc. Hơn nữa, Nhật cho rằng đối tượng đến bù phải là VN DCCH chứ. Năm 1956 tổng thống VNCH Ngô Đình Diệm rút xuống còn 250 triệu USD, Nhật đề nghị 25 triệu, chỉ bằng 10%. Năm 1957 Nhật đề xuất xây thủy điện Đa Nhim với giá 30 triệu USD, Diệm ứ chịu. Cò kè bớt 1 thêm 2, đến 1959 thì OK: 39 triệu USD. Khởi công tháng 4-1961 đến tháng 12-1964 bắt đầu phát điện. Năm 1968 bom đạn phá hỏng tùm lum, coi như ngừng. Năm 1975 ta sửa chữa, ngày 23-5-1976 dòng điện Đa Nhim bắt đầu chạy re re.
Quý vị nào từng đọc tiểu thuyết Bông mai mùa lạnh của nhà văn Phương Lê, xuất bản năm 1979, sẽ thấy xoay quanh việc sửa chữa đó. Tui xem rồi, cả 2 tập.
Tui đã máy phen dẫn sinh viên đi thực tế ở Đà Lạt, tiện đường ghé thủy điện Đa Nhim. Ảnh đó. Ai có mặt, giơ tay lên!
Hê hê hê!
Nguồn: Có Hưởng

99 năm cụ Phan Châu Trinh hạc giá vân du

    

    Hôm nay (24/3/2025) tưởng niệm 99 năm ngày "hạc giá vân du", cỡi hạc bay về trời của đại chí sỹ yêu nước Phan Châu Trinh (1872 - 1926), hiệu là Tây Hồ, sinh quán Quảng Nam.
    Ông sinh ra trong một nhà Nho yêu nước, trong lúc nước mất nhà tan, lớn lên trong cảnh thực dân Pháp đô hộ. Ông cùng nhiều chí sỹ yêu nước đã tiến hành canh tân đất nước bằng con đường bất bạo động. Đọc lịch sử ông ta thấy ông thể hiện một phần khí phách của một anh hùng, ông đi từ Trung vào Nam, rồi ra Bắc, gặp những người cần gặp (Phan Bội Châu, Nguyễn An Ninh, Phan Văn Trường, anh Hùng Yên Thế-Hoàng Hoa Thám, Lương Khải Siêu), cụ Hồ, đi cả Tàu lẫn Tây để thương thảo canh tân đất nước. Các bài viết của ông có giá trị cao, với tư tưởng: Khai dân trí, chấn dân khí, hậu dân sinh.

    Ông được xếp vào hàng ngũ vĩ đại những nhà cách tân lúc bấy giờ, sánh cùng với Tôn Dật Tiên ở Trung Quốc, và Gandi bên Ấn Độ. Những di sản, tư tưởng cách tân của ông mãi soi sáng, mở cửa, tầm vóc cho thế hệ Việt.
Từ xa bái vọng về cố quốc!

Viết vội bằng trí nhớ, tại Gia Nghĩa, ngoại quốc. 
Trường An Đỗ Tấn Thích

Thứ Bảy, 22 tháng 3, 2025

HOA VÀNG TRÊN CỎ XANH




Phú Yên là phú quý bình yên. Nếu sáp nhập tỉnh, danh xưng này biến mất thì còn phú quý bình yên và vẫn thấy “hoa vàng trên cỏ xanh”.
Tui đến Phú Yên lần đầu tiên vào cuối năm 1980. Tốt nghiệp, từ Hà Nội đi nhận nhiệm sở, tui zọt qua Quy Nhơn zô Sài Gòn chơi cái đã. Đến ga Tuy Hoà, tàu phải dừng vì đèo Cả sạt lở lấp đường sắt. Thế là ngày nào tui cũng lang thang, không hang cùng ngõ hẻm nào ở thị xã Tuy Hoà là chưa in gót. Bé tí, nhếch nhác. Đúng 10 ngày sau mới có xe đò (xe khách) để “tăng-bo” hành khách vào ga Đại Lãnh. Nhờ đó mà tui được chiêm ngưỡng đèo Cả và ngắm nghía hòn Đá Bia. Nhớ đời.
Năm 1471 vua Lê Thánh Tông thân chinh cầm quân Nam tiến đến tận đèo Cả. Rồi thấy khó giữ, bèn rút ra đèo Cù Mông. Phần đất Phú Yên ngày nay gọi là Ayaru, giao cho 1 viên quan Chiêm Thành đã quy phục ta, cai quản. Một thế kỷ sau, năm 1578 chúa Nguyễn Hoàng cử tướng Lương Văn Chánh đánh chiếm Ayaru. Người Chiêm âm ỉ kháng chiến, vùng đất này trở thành nơi tranh chấp liên miên. Muốn giữ đất thì phải có dân, Lương Văn Chánh tổ chức đưa dân từ Thanh- Nghệ- Thuận- Quảng vào khẩn hoang lập ấp. Năm 1611 người Chiêm bị đánh bật qua đèo Cả, vùng Ayaru được sáp nhập vào xứ Đàng Trong với tên gọi Phú Yên.
Vậy, danh xưng Phú Yên xuất hiện từ năm 1611, ngay khi trở thành 1 phần lãnh thổ Đàng Trong.
Năm 1832 vua Minh Mạng thành lập tỉnh Phú Yên. Năm 1904 tỉnh Phú Yên, lúc đó bao gồm cả Đăk Lăk, Gia Lai ngày nay, bị Pháp xẻ nhỏ ra, mất danh xưng Phú Yên. Năm 1921 Pháp tái lập tỉnh Phú Yên gồm 4 huyện Tuy Hòa, Tuy An, Đồng Xuân, Sơn Hòa. Năm 1976 Phú Yên sáp nhập với Khánh Hoà thành tỉnh Phú Khánh, đến 1989 lại tách ra, vũ như cẫn.
Khi tái lập tỉnh, tui được mời đến Tuy Hoà dạy cho nửa lớp Cao đẳng Sư phạm Nha Trang bị “đuổi” về quê. Trường chia đôi, những ai quê Phú Yên đều bị “tống cổ”, cả thầy lẫn trò. Nghe các thầy nói chuyện cãi vã chia chác từ chiếc ô-tô cà tàng đến cái bàn rụng càng, cái ghế gãy cánh mà cười ra nước mắt. Lại còn chuyện tranh chấp cái vịnh Vũng Rô, hai bên dàn quân gầm ghè nhau nữa chớ. Rõ chán!
Vũng Rô có sự kiên 24-2-1965, tàu không số bị địch phát hiện lần đầu tiên. Rùm beng hết cả lên.
Phú Yên có ai?
Có ông Lương Văn Chánh (? -1611) người gốc Thanh Hóa, có công mở mang bờ cõi và gây dựng vùng đất này. Ông được chúa Nguyễn phong tước Bảo quốc Hộ dân chi thần. Nay, đền thờ ông là Di tích lịch sử cấp quốc gia. Lại có ông Lê Thành Phương (1825-1887) quê Tuy An, năm 1885 chiêu tập nghĩa quân chống Pháp trong phong trào Cần Vương. Đền thờ ông là Di tích LSVH cấp quốc gia. Hai anh em ruột Nhật Lai, Nguyễn Mỹ cùng sinh tại Tuy An, cùng đoạt Giải thưởng Nhà nước về VHNT. Nhạc sĩ Nhật Lai với nhạc kịch Bên bờ Krông Pa (là sông Ba đấy), nhạc múa Tiếng trống Chăm H’roi, ca khúc Hà Tây quê lụa, Bài ca anh Hồ Gíáo, v.v. Nhà thơ Nguyễn Mỹ có Cuộc chia ly màu đỏ, Con đường ấy, Hoa cúc tím, v.v. Tổng bí thư Trần Phú quê Hà Tĩnh, sinh tại Tuy An (Phú Yên) và chết ở Sài Gòn.
Sáng 1-9-1945 Thượng thư Bộ Lại Ngô Đình Diệm khi trốn chạy bị du kích Việt Minh tóm cổ trên sông Đà Rằng. Sau đó Diệm được giải ra Hà Nội. Chủ tịch Hồ Chí Minh gặp Diệm, rồi thả ra.
Năm 1955 luật sư Nguyễn Hữu Thọ bị chính quyền Ngô Đình Diệm quản thúc tại Tuy Hoà. Ngày 29-10-1961 ông được ta giải thoát, đưa ra chiến khu giữ chức Chủ tịch Mặt trận Dân tộc Giải phóng. Sau này ông là Chủ tịch Quốc hội, Phó chủ tịch nước rồi Quyền chủ tịch nước.
Ngày 1-4-1975, tàn quân triệt thoái khỏi Tây Nguyên theo Quốc lộ 7B về đến Tuy Hoà. Tơi tả. Chuẩn tướng Trần Văn Cẩm, Phó tư lệnh Quân đoàn 2 bị tóm gọn. Đây là viên tướng ngụy đầu tiên bị bắt sống trong kháng chiến chống Mỹ.
Cháu đích tôn của cha tôi công tác ở Lào Cai, xớ rớ thế quái nào mà lấy vợ tận Phú Yên. Hồi đó tui ở Quy Nhơn, thế là trở thành “tư lệnh tiền phương” của cái đám cưới ngàn trùng xa cách, nhưng “mấy sông cũng lội, mấy đèo cũng qua”.
Phú Yên có gì?
Có sông Đà Rằng rộng nhất duyên hải miền Trung và cầu Đà Rằng dài nhất Trung Kỳ nhì Đông Dương, chỉ thua cầu Long Biên. Đà Rằng là biến âm từ Ea Đrăng của tiếng Chăm, có nghĩa là Sông Lau Sậy. Thượng nguồn của nó là sông Ba, còn gọi là sông Ea Pa, Ia Pa hay Krông Pa. Nhắc đến sông Ba, hẳn nhiều người nhớ đến bài hát Cô gái vót chông với giọng ca Tường Vy lảnh lót một thời:
Như bao cô gái ở trên non
Cô gái sông Ba đầu búi tóc thon…
Chuyện rằng, năm 1954 ông Lô Mô Y Choi, người Ê Đê ở huyện Sông Hinh, tập kết ra Bắc. Năm 1965 nghe đài nói phong trào vót chông rào làng đánh Mỹ, ông hình dung những cô gái ngồi vót chông bên dòng sông Ba quê mình, thế là bài thơ ra đời. Nhạc sĩ Hoàng Hiệp chộp được, phổ nhạc, và thành bài hát.
Về kinh tế, so với các tỉnh duyên hải Trung Bộ, Phú Yên có vẻ thiệt thòi nhất. Rẻo đất ven biển này bị bao vây chặt cứng. Lên Tây Nguyên bị núi rừng trùng điệp ngáng đường. Ra bắc phải vượt đèo Cù Mông hiểm trở. Vào nam phải qua đèo Cả chót vót. Bờ biển phía đông khá dài nhưng không có cảng nước sâu, ứ giao thương được với bên ngoài. Tứ bề bị chặn như thế, phát triển kinh tế khó đáo để.
Tuy nhiên, Phú Yên là tỉnh đánh bắt cá ngừ đại dương nhiều nhất cả nước. Chả thế mà xứ này nổi tiếng với món mắt cá ngừ chưng trong thố và món gỏi bao tử (dạ dày) cá ngừ. Tui ăn rồi. Ngon!
Về văn hoá, bộ phim Tôi thấy hoa vàng trên cỏ xanh nổi như cồn đã tạo động lực cho du lịch Phú Yên phát triển. Đó là trong phim, ngoài đời thì đoạn QL1A qua thị xã Sông Cầu có cung đường “15 cây số ăn chơi” nổi tiếng. Từ Gành Ráng, Quy Nhơn đi một đoạn là tới. Tui đến hoài, đã lắm! Trên trời thì có trăng La Hai với vẻ đẹp hoang sơ ma mị, khiến lủ khủ thi sĩ tốn giấy hao mực. Một đêm rằm năm 1989 tui đã ngồi vắt vẻo trên cây cầu sắt ở gần ga La Hai để ngắm trăng. Tuyệt cú mèo!
Về danh lam thắng cảnh, Phú Yên là vùng đất hoang sơ, xinh đẹp với nhiều bãi biển, đầm vũng và di tích lịch sử văn hoá. Khu bảo tồn thiên nhiên quốc gia Krông-Trai với hệ động vật và thực vật phong phú đa dạng. Rồi Núi Đá Bia, Núi Nhạn, Vũng Rô, đầm Ô Loan, vịnh Xuân Đài… Đặc biệt, tại thị xã Đông Hoà có Mũi Điện, còn gọi là Mũi Đại Lãnh, là điểm đón ánh bình minh sớm thứ 2 trên đất liền của Việt Nam. Nó chỉ thua Mũi Đôi ở Vạn Ninh (Khánh Hoà) có 4 giây kinh độ. Kinh độ Đông của Mũi Điện là 109˚27'06" còn của Mũi Đôi là 109˚28'00". Xíu xìu xiu.
Có sông phải có núi mới cân bằng, thế là giữa đồng bằng Tuy Hòa phẳng phiu bỗng mọc lên quả núi Chóp Chài cao 394 mét, chơi vơi. Lên đỉnh ngó xuống TP Tuy Hòa đã mắt lắm. Tôi lên đó rồi, chạy mô-tô khỏe re.
Huyện Tuy An có Gành Đá Đĩa, một kỳ quan thiên nhiên do núi lửa phun trào tạo nên. Nó được công nhận là Thắng cảnh cấp quốc gia năm 1997 và xếp hạng Di tích quốc gia đặc biệt năm 2020.
Về công trình nhân tạo, nhà thờ Mằng Lăng ở huyện Tuy An có từ năm 1892, là 1 trong những nhà thờ đá lâu đời nhất Việt Nam.
Công trình mới toe mà hoành tá tràng nhất Phú Yên là cái tháp Nghinh Phong. Đến TP Tuy Hòa mà chưa tới đây ngắm nghía, sờ soạng và lắng nghe âm thanh của nó thì coi như chưa thấy “hoa vàng trên cỏ xanh”. Thực ra là Nghênh Phong, trong đó Nghênh là đón chào, Phong là gió, rồi biến âm mà thành.
Tác giả thiết kế đã kết hợp huyền sử Trăm trứng trăm con với cảm hứng Gành Đá Đĩa. Tháp có 2 cột, cột Lạc Long Quân cao 34 mét và cột Âu Cơ thấp hơn 6 mét. Cuộc ly hôn đầu tiên trong lịch sử nước ta được thể hiện bằng 1 khe hẹp ngăn cách đôi uyên ương. Vì chia sòng phẳng 50 con theo mẹ, 50 con theo cha, nên mỗi bên chân tháp có 50 khối đá lục giác xếp chồng lên nhau. Nghe nói thế chứ sức đâu mà đếm! Nhìn từ xa, công trình như mũi tàu băng băng vượt trùng dương, những khối đá tối sáng lấp loáng như sóng đang tung bọt. Túm lại là: Hết sảy!
Tui đến rồi nên tui biết. Ảnh đó. Hê hê hê!
Nguồn: Có Hưởng

Thứ Sáu, 21 tháng 3, 2025

QUY NHƠN HƠN BÌNH ĐỊNH





Thứ nhất là già hơn: danh xưng Quy Nhơn (Quy Nhân) xuất hiện trước danh xưng Bình Định 197 năm (1602-1799). Thứ nhì là nhiều món hơn: biển xanh cát trắng, cảng nước sâu, hải đăng lấp loáng, đầm phá bao la, cầu Thị Nại dài thoòng, núi Vũng Chua có radar hiện đại, bán đảo Phương Mai có ông Trần Hưng Đạo uy nghi, vân vân và mây mây.
Chả thế mà nghe đồn, nếu sáp nhập tỉnh thì Bình Định mất tên, nhưng Quy Nhơn vẫn cứ là thủ phủ.
Chuyện rằng, năm 1471 vua Lê Thánh Tông mở mang bờ cõi, thành lập thừa tuyên Quảng Nam gồm 3 huyện Bồng Sơn, Phù Ly và Tuy Viễn trải từ đèo Hải Vân đến đèo Cù Mông. Một thế kỷ sau, theo kế “Hoành Sơn nhất đái, vạn đại dung thân” của Nguyễn Bỉnh Khiêm, Nguyễn Hoàng vào đây, đổi huyện Bồng Sơn ra phủ Hoài Nhân, mong muốn quy tụ người hiền tài nhân nghĩa. Chả là theo Hán tự thì Hoài là mong, nhớ, nghĩ về; Nhân là nhân ái, tình người mà lị. Từ đó, vùng đất này xuất hiện lủ khủ các địa danh có chữ Nhân: Quy Nhân, Nhân Hội, Nhân Lý, Nhân Hải, Nhân Châu, v.v. Năm 1602 chúa Nguyễn Hoàng đổi phủ Hoài Nhân ra phủ Quy Nhân. Rồi do tật biến âm, người ta đọc là Hoài Nhơn, Quy Nhơn. Có ý kiến cho là do kỵ huý. Sao cũng được!
Như vậy, danh xưng Quy Nhơn (Nhân) xuất hiện trong vũ trụ này từ năm 1602.
Năm 1930 Pháp nâng cấp thị xã Quy Nhơn lên thành phố cấp 3. Sau CMT8-1945, Việt Minh cai quản Quy Nhơn, gọi là thị xã Nguyễn Huệ. Nửa cuối thập niên 1950 chính quyền VNCH đổi là xã Quy Nhơn thuộc quận Tuy Phước. Năm 1970 xã Quy Nhơn nhảy sang quận Nhơn Bình. Năm 1971 xã Quy Nhơn lại trở thành thị xã. Đất nước thống nhất, năm 1976 "khắc nhập" Bình Định với Quảng Ngãi thành tỉnh Nghĩa Bình, lấy thị xã Quy Nhơn làm tỉnh lị. Năm 1986 thị xã Quy Nhơn được lên thành phố, năm 1998 lên đô thị loại 2, năm 2010 lên đô thị loại 1.
Bi chừ nói chuyện Bình Định.
Năm 1471 vua Lê Thánh Tông chiếm kinh đô Đồ Bàn của Chiêm Thành, đốt trụi, san phẳng rồi bỏ hoang. Năm 1773 Nguyễn Nhạc tự xưng hoàng đế, đến đây đóng đô, xây dựng tử tế, gọi là thành Hoàng Đế. Năm 1799 Nguyễn Ánh đích thân chỉ huy đánh chiếm thành, đổi tên là thành Bình Định.
Như vậy, danh xưng Bình Định xuất hiện trong Hệ Mặt trời này từ năm 1799.
Năm 1802 vua Gia Long thống nhất giang sơn, lập ra doanh Bình Định gồm phủ Quy Nhơn và 3 huyện Phù Ly, Tuy Viễn, Bồng Sơn. Đến 1806 doanh Bình Định đổi là trấn Bình Định, lị sở là thành Bình Định. Năm 1814 xây thành Bình Định mới, cách thành cũ 5 km về phía sông Kôn, nay thuộc phường Bình Định, thị xã An Nhơn.
Năm 1979, xã Nhơn Hưng của huyện An Nhơn bị thiến 1 phần khơ khớ để thành lập thị trấn Bình Định. Từ đó tỉnh Bình Định có 1 thị trấn trùng tên, khiến khách vãng lai không khỏi lăn tăn. Năm 2011 thành lập thị xã An Nhơn, thị trấn Bình Định trở thành phường Bình Định. Sắp tới bỏ cấp huyện, thị xã An Nhơn có lẽ bị xoá sổ, chẳng biết phường Bình Định có còn không.
Năm 1816 vua Gia Long dời thủ phủ của trấn Bình Định đến Quy Nhơn. Như vậy, Quy Nhơn trở thành thủ phủ của Bình Định từ năm 1816.
Năm 1832 vua Minh Mạng chia nước ta ra 30 tỉnh và 1 kinh thành, danh xưng “tỉnh Bình Định” chính thức xuất hiện từ đây. Lúc này tỉnh Bình Định có 2 phủ An Nhân (Nhơn), Hoài Nhân (Nhơn) và 5 huyện Bồng Sơn, Phù Mỹ, Phù Cát, Tuy Phúc (Phước), Tuy Viễn.
Bình Định có gì?
Trước hết là có võ:
Ai về Bình Định mà coi
Con gái Bình Định múa roi đi quyền.
Danh lam thắng cảnh thì bát ngát, nhưng khổ nỗi, dồn cả đống vào Quy Nhơn. Còn lại thì huyện Tây Sơn có Bảo tàng Quang Trung, ranh giới 2 huyện Phù Mỹ, Phù Cát có vịnh (hay vũng, đầm) Đề Gi, nước mặn thụt lưỡi mà có tên dân gian là đầm Nước Ngọt:
Mặn chằng nước vũng Đề Gi
Gọi đầm Nước Ngọt lẽ gì hỡi em?
Danh nhân Bình Định thì lủ khủ: vua Quang Trung- Nguyễn Huệ (1753-1792), chí sĩ Tăng Bạt Hổ (1859-1906), anh hùng Ngô Mây (1924-1947) đánh bom cảm tử, bác sĩ Phạm Ngọc Thạch (1909-1968, sinh tại Quy Nhơn), Đào Tấn (1845-1907) ông tổ hát bội (tuồng), Xuân Diệu (1916-1985, sinh tại Quy Nhơn) “ông hoàng thơ tình”, v.v.
Quy Nhơn có gì?
Bát bao la ngát, gõ cả ngày không hết. Bởi thế tui chỉ nói đến cái đỉnh núi Vũng Chua cao nhất Quy Nhơn.
Từ Gành Ráng, nơi có bãi tắm Tiên Sa và mộ Hàn Mặc Tử, lối vào Trại phong Quy Hòa chỉ qua 1 con đèo duy nhất: đèo Quy Hòa. Đến lưng đèo rẽ tay phải là lối lên đỉnh Vũng Chua. Năm 1965 Mỹ đặt hệ thống radar hoành tá tràng, trông như những cánh buồm căng gió giữa lồng lộng mây trời.
Năm 1990 quân đội bàn giao núi Vũng Chua cho Trung tâm Quản lý bay dân dụng VN. Trạm radar mới mọc lên, năm 1994 bắt đầu hoạt động. Cũng năm đó, trường ĐHSP Quy Nhơn đang có lớp Điện tử- Viễn thông do cái lão tui phụ trách, thế là tui đưa sinh viên lên đó tham quan thực tế. Đứng ở độ cao 620 mét so với mặt biển, thấy TP Quy Nhơn như cánh buồm cong cong giữa 3 bề sóng vỗ. Hết sảy! Thế là chụp ảnh.
Hê hê hê!
Sưu tầm: Có Hưởng

Thứ Năm, 20 tháng 3, 2025

QUẢNG NGÃI VẪN CÒN



Dân gian có câu vè gắn với 4 tỉnh nối tiếp nhau trải dài ven biển Trung Trung Bộ, từ đèo Hải Vân đến đèo Cả: Nam- Ngãi- Bình- Phú:
Quảng Nam hay cãi
Quảng Ngãi hay lo
Bình Định nằm co
Phú Yên hốt hết.
Bà con ám chỉ những đặc điểm gì, đúng sai thế nào ứ rõ, chỉ biết rằng câu vè này đã lan truyền dai dẳng suốt mấy trăm năm, chắc là có lý do. Nay nghe đồn, sau khi sáp nhập tỉnh thì Quảng Nam, Bình Định, Phú Yên mất tên, riêng Quảng Ngãi là còn. Đã thế, thành phố Quảng Ngãi cũng được lấy làm thủ phủ của tỉnh mới. Rõ là được cả chì lẫn chài. Híc!
Quảng Ngãi có gì mà gớm thế?
Chuyện rằng, năm 1403 vua Hồ Quý Ly mở mang bờ cõi đến sông Trà Khúc, lập ra 4 châu Thăng, Hoa, Tư, Nghĩa. Rồi nhà Hồ suy vong, người Chiêm lấy lại. Năm 1471 vua Lê Thánh Tông mở cõi phăng phăng, thành lập thừa tuyên Quảng Nam trải từ đèo Hải Vân đến đèo Cù Mông. Năm 1602 chúa Nguyễn gọi là dinh Quảng Nam và đổi phủ Tư Nghĩa ra phủ Quảng Nghĩa (Ngãi).
Danh xưng Quảng Nghĩa (Ngãi) xuất hiện từ đây, năm 1602.
Năm 1776 nhà Tây Sơn đổi phủ Quảng Nghĩa ra phủ Hòa Nghĩa. Năm 1803 vua Gia Long trả phủ Hòa Nghĩa về tên cũ. Năm 1832 vua Minh Mạng thành lập tỉnh Quảng Ngãi. Sau CMT8-1945, chính quyền Việt Minh đổi tỉnh Quảng Ngãi thành tỉnh Lê Trung Đình. Năm 1955 chính thể VNCH gọi lại là tỉnh Quảng Ngãi.
Cuối năm 1975 Quảng Ngãi “khắc nhập” với Bình Định thành tỉnh Nghĩa Bình, thị xã Quảng Ngãi hợp nhất với huyện Tư Nghĩa thành thị xã Quảng Nghĩa, nghe cứ loạn cào cào! Từ giữa năm 1989 thì “khắc xuất” như cũ đến bi chừ.
Ủa, Quảng Ngãi hay Quảng Nghĩa?
Hán tự là 廣 義, trong đó Quảng 廣 là rộng lớn, Nghĩa 義 là nghĩa khí, Quảng Nghĩa là “nghĩa khí rộng lớn”. Cớ làm sao Nghĩa biến ra Ngãi? Là do biến âm theo phương ngữ. Dân ta từ ngoài Bắc vô đây lập nghiệp, bị nhiễm giọng người Chăm bản địa, phát âm méo mó hết cả. Thế là Nghĩa trại thành Ngữa, rồi Ngỡ, cuối cùng là Ngỡi. Người ta đọc Ngỡi mà ứ biết phải viết thế nào, tức mình viết béng là Ngãi. Tương tự, huyện Bình Sơn có cái vịnh Vũng Quýt, nói trại thế quái nào mà thành Dung Quất.
Quảng Ngãi có gì?
Có đủ thứ. Lủ khủ danh lam thắng cảnh như núi Ấn sông Trà sơn thuỷ hữu tình; bãi biển Sa Huỳnh cát vàng muối trắng; đảo Lý Sơn tỏi thơm cảnh đẹp, Thác Trắng Minh Long vừa trong vừa mát. Lúc nhúc món ngon như cá bống sông Trà, cúm núm Sa Huỳnh, nhum Châu Me chưa nghe đã thèm. Bát ngát di tích lịch sử như Thành cổ Châu Sa, Chùa Hang Lý Sơn, Di tích Đặng Thùy Trâm, Làng cổ Thiên Xuân, Thành cổ Quảng Ngãi, Khu di tích Mỹ Lai (Sơn Mỹ). Vân vân và mây mây.
Quảng Ngãi có ai?
Trước hết là có vua. Chủ tịch nước Trần Đức Lương quê Đức Phổ. Quý tử nhà ông là quan Nhất phẩm triều đình Trần Tuấn Anh, tự nguyện hưu non hạ cánh an toàn. Có quan tể tướng Phạm Văn Đồng quê Mộ Đức, là thủ tướng tại vị lâu vô địch: 32 năm (1955-1987). Có 2 quan Nhất phẩm khóa 7 Đỗ Quang Thắng quê Đức Phổ và Ng.Hòa Bình khóa 13 quê Nghĩa Hành.
Mở sử triều Nguyễn thấy có Khai quốc công thần Lê Văn Duyệt quê Mộ Đức. Là Tả tướng quân, ông và Hữu tướng quân Ng.Văn Thành là 2 cận thần của chúa Nguyễn Ánh. Ông có công to sau 2 lần giữ chức Tổng trấn Gia Định, được dân thờ như thành hoàng. Kế đến là Trương Định quê Sơn Tịnh. Dân suy tôn ai thì gắn cho người đó chữ Công, thế là thành Trương Công Định, kiểu như gọi Quang Vân Trường là Quan Công í mà.
Văn hóa nghệ thuật có thi sĩ Bích Khê quê Sơn Tịnh, thi sĩ Tế Hanh quê Bình Sơn cùng em ruột là nhạc sĩ Thế Bảo, nghệ sĩ điện ảnh Trà Giang sinh tại TP Quảng Ngãi, nhạc sĩ Trương Quang Lục (Sơn Tịnh), nhạc sĩ “chim sáo ngày xưa” Nhất Sinh (TP Quảng Ngãi), v.v.
Quảng Ngãi rất chi là nhiều tướng lĩnh. Riêng huyện Sơn Tịnh, chỉ tính trong 2 cuộc kháng chiến chống Pháp và Mỹ (1945-1975) đã phát sinh 13 vị tướng, đó là thượng tướng Trần Văn Trà (xã Tịnh Long); các trung tướng Ng.Chánh (Tịnh Hà), Ng.Đôn (Tịnh Bình), Trần Quý Hai (Tịnh Châu), Phạm Kiệt (Tịnh Minh), Phạm Nam Tào (Tịnh Minh), Võ Thứ (Tịnh Hà); các thiếu tướng Võ Bẩm (Tịnh Khê), Châu Khải Địch (Tịnh Hà), Lê Trung Ngôn (Tịnh Ấn), Phạm Quang Tiệp (Tịnh Sơn), Huỳnh Kim, Phạm Luận (Tịnh Minh).
Đại thể, Quảng Ngãi rất chi là xứng đáng. Mệt quá, tàm tạm thế thôi. Tui đến rồi nên tui biết. Hê hê hê!
ST: Có Hưởng

Thứ Năm, 20 tháng 2, 2025

Văn minh, theo cụ Phan Bội Châu


Kỳ Ngoại hầu Cường Để (đứng) và nhà cách mạng Phan Bội Châu

"Thời nay, người nước ta nói trong mắt không thấy có xe hơi, tàu thủy; trong tai không nghe tiếng súng Tây, pháo Tây, trong lòng không biết việc học theo Tây, kĩ xảo của Tây, thực không phải thế. Thế thì mắt thấy gì mà như mù, tai nghe gì mà như điếc, lòng biết gì mà như dại như say là tại sao?
Xét nguyên nhân thì một là người nước ta sống một cách nhớn nhác, hai là sống một cách dằng dai theo nếp cũ mà không chịu đổi mới. Các môn học như quang học, động học, hóa học, lí học khi nghiên cứu tới chúng thì cho rằng khó khăn vất vả, có bắt chước theo thì cũng lơ mơ, mù tịt. Người lớn tuổi ngày càng không còn mấy, người trẻ tuổi thì vợ con trói buộc. Xe hơi, tầu thủy để cho người khác làm cả, còn ta thì làm đầy tớ cho người Pháp. Súng Tây, pháo Tây để cho người Pháp làm, còn ta thì làm c.h.ó cho người Pháp.
Ta không có học thuật như Tây, nhưng cũng đường đường là một ông tiến sĩ, cử nhân Việt Nam! Ta không có kĩ nghệ như Tây, nhưng mà cũng đàng hoàng là người thông sự ở Phủ Toàn quyền, là người phán sự ở Tòa Công sứ! Suy ra như thế thì thấy rằng kiến thức, khả năng bàn luận của ta làm sao mà biết hỏi đáp được văn mình là cái gì? Vả lại mọi thứ vật dụng tinh xảo, bền đẹp, nếu mình không chế tạo ra thì ở trên trời rơi xuống chăng? Một cái đài cao đẹp nếu chẳng phải do xây đắp nên thì nó ở dưới biển trồi lên hay sao? Sự nghiệp văn minh nếu không từng bước thực hiện thì tự nó đến với mình sao được? Người ta có máy móc, sao ta không tự mình mà làm? Người ta biết đổi mới, sao chỉ riêng mình là cổ hủ? Viêc học tập tinh thông các nghề ở Anh, Nhật, Đức, Mỹ tuy nhanh cũng phải đến hai năm, ta cũng đừng cho đó là điều khó. Các khoa học về binh, công, nông, thương tuy họ học nhanh cũng phải đến năm năm, ta chớ cho rằng học tinh tường như thế mà chán nản.
Muốn học kĩ năng của các nước, trước hết phải học ngôn ngữ, văn học, luyện cách phát âm, cách nói của các nước đó thật nhuần nhuyễn đã, hoặc một năm, hoặc hai năm, nếu là người có chí thì phỏng có khó gì. Ta muốn lên vũ đài của văn minh, muốn hấp thụ hết những tinh túy của nước ngoài, đều phải tự mình đi khắp các kinh đô, đô thành của các nước, dù phải chịu cảnh đắt đỏ gạo châu củi quế, dù tốn kém tiền bạc thì người có sức lực há sợ gì tốn kém.
Ta muốn vượt lên trên chiến lũy của văn minh, nếu nước khác phải đi một tháng mới đến đích, thì ta phải gắng sức đi đến đích chỉ một vài tuần, người khác có đôi chân đi được ngàn dặm thì ta phải cố đi được vạn dặm. Mới đầu thì ta lấy họ làm thầy, sau ta sẽ lại làm thầy của họ. Nước Nhật Bản bân giờ, có khác gì nước Việt Nam ngày mai."
Đoạn văn trên cụ Phan Bội Châu viết vào năm 1907, ở cuốn Tân Việt Nam.

Thứ Tư, 19 tháng 2, 2025

Đường Kha Vạn Cân - Võ Văn Ngân (1989)

 


Thứ Bảy, 18 tháng 1, 2025

RỒNG RẮN LÊN MÂY



Hết năm Rồng đến năm Rắn. Nay rảnh, gõ mấy nhát.
Xưa, có vị khách lạ đến đầu làng, thấy lũ trẻ tắm truồng trong ao, bèn hỏi đường đến nhà quan Nghè Thứ. Một thằng bé 7-8 tuổi tồng ngồng nhảy lên bờ, hất hàm:
- Ông đến nhà quan Nghè Thứ chơi, hẳn ông là người giỏi chữ. Vậy cháu đố ông đây là chữ gì. Nói được, cháu chỉ nhà cho.
Rồi nó dạng 2 chân 2 tay ra. Vị khách trả lời ngay:
- Là chữ Đại chứ gì mà phải đố!
Thằng bé lắc đầu, nói to:
- Sai rồi! Đó là chữ Thái, hê hê hê!
Rồi nhảy ùm xuống ao, cùng lũ bạn cười hí hố. Chả là chữ Thái 太 giống chữ Đại 大 nhưng có dấu chấm ở dưới như cái của quý vắt vẻo của thằng bé.
Thằng bé đó tên là Lê Quý Đôn. Về đến nhà, thấy ông khách kia đang ngồi uống trà với cha mình, nó ngượng nghịu lí nhí chào. Khách nhận ra, bèn kể lại chuyện với ý khen ngợi. Quan Nghè Thứ cho thế là hỗn, bắt nó mang roi ra, nằm sấp lên phản. Khách rối rít xin tha, nhưng cũng muốn thử tài, bèn bảo Đôn:
- Nếu muốn khỏi đòn, cháu phải làm một bài thơ tạ tội.
Đôn ngẩng đầu thưa:
- Xin bác ra đề ạ.
- Năm nay là năm Tỵ, vậy ta ra đề là: Rắn đầu biếng học. Cháu phải làm thơ Nôm, thất ngôn bát cú, và phải hứa chăm học.
Trong chốc lát, Đôn ứng khẩu đọc luôn:
Chẳng phải liu điu cũng giống nhà
Rắn đầu biếng học lẽ không tha
Thẹn đèn hổ lửa đau lòng mẹ
Nay thét mai gầm rát cổ cha
Ráo mép chỉ quen tuồng lếu láo
Lằn lưng chẳng khỏi vệt dăm ba
Từ nay Trâu, Lỗ xin siêng học
Kẻo hổ mang danh tiếng thế gia.
Ông khách khiếp vía, thốt lên:
- Giỏi quá! Giỏi quá! Đúng là thần đồng.
Cậu bé đã đưa tên rắn vào từng câu thơ: rắn liu điu, rắn đầu, hổ lửa, mai gầm, rắn ráo, thằn lằn (người xưa tưởng là 1 loài rắn), hổ trâu, hổ mang. Đã thế, bài thơ còn dẫn cả điển tích về Khổng Tử và Mạnh Tử: nước Lỗ là quê Khổng Tử, nước Trâu là quê Mạnh Tử.
Bi chừ nói chuyện con rắn.
Hình tượng con rắn trơn tuồn tuột chui rúc vào các ngõ ngách văn hóa trên khắp quả đất, là biểu tượng của cả tốt và xấu, sự sống và cái chết, hủy diệt và tái sinh, dục vọng và tội lỗi. Nọc rắn làm thuốc chữa bệnh, thịt rắn bổ dưỡng, ngâm rượu tam xà, ngũ xà hay băm viên gói lá lốt làm chả thì hết sảy. Rắn còn diệt trừ địch hoạ và góp phần cân bằng sinh thái vì rất khoái món chuột tươi sống.
Xét về dịch lý, tháng Tỵ là tháng Tư âm lịch, bước vào mùa hè, vạn vật âm suy dương thịnh, rắn bắt đầu lột xác. Vì thế, mặc dù Tỵ thuộc âm hỏa, nhưng rắn lại tượng trưng cho dương khí. Trong ngày, Tỵ là lúc 10 giờ sáng, sương sớm đã tan, nắng ấm tràn trề. Về phong thuỷ, Tỵ là hướng nam- đông nam, phù hợp với hướng nhà. Về tử vi, người tuổi Tỵ hướng thượng, dám đương đầu với những việc quá sức mình và thường hoàn thành mỹ mãn. Tuổi Tỵ trầm tĩnh, dễ gây cảm giác lạnh lùng cho người mới tiếp xúc, nhưng có lửa bên trong, sẽ bùng cháy khi cần thiết.
Rắn cũng ngự trị trong đủ các loại tín ngưỡng và tôn giáo.
Truyền thuyết Hy lạp coi rắn là biểu tượng của thần chữa bệnh Asklepios, nên cả 2 ngành y và dược đều lấy con rắn là biểu hiệu: ngành y là rắn cuốn trên chiếc gậy, ngành dược thì rắn cuốn trên cái cốc (ly) có chân, nhả nọc vào cốc.
Người Việt có 2 truyền thuyết ngồ ngộ về rắn. Một là chuyện Ng.Trãi vô ý để gia nhân dọn vườn giết một tổ rắn, thế là bị rắn báo oán và lãnh án tru di tam tộc. Hai là sự tích con giao long (thuỷ thần) đội lốt học trò của Chu Văn An, cầm bút chấm mực vẩy lên trời để gọi mưa, cứu hạn cho dân.
Người Ả Rập coi rắn là đại diện cho sự khôn ngoan nhanh nhẹn và cả sự nguy hiểm, độc địa.
Hình tượng rắn Naga trong Hindu giáo tượng trưng cho thần Shiva. Naga, tiếng Phạn có nghĩa là rắn hổ mang chúa, cũng có nghĩa là hủy bỏ mọi tội ác.
Khi lây lan truyền nhiễm vào Phật giáo, Naga mọc thêm đầu. Naga 3 đầu tượng trưng cho Thiên- Địa- Nhân; 5 đầu ứng với Ngũ hành Kim, Mộc, Thủy, Hoả, Thổ; 6 đầu thì biểu trưng cho phái nữ, thể xác và sự chết chóc; 7 đầu là đắc đạo. Chả thế mà người Khmer dệt khăn ca-rô tượng trưng cho thần rắn, suốt ngày vắt vai quấn đầu để được phù hộ độ trì. Dân ta ở Nam Bộ bắt chước, gọi là khăn rắn, sau trại ra là khăn rằn. Kinh Phật viết rằng, hoàng hậu Maya hạ sinh thái tử Tất Đạt Đa tại vườn Lâm Tì Ni được rắn Naga 9 đầu phun nước tắm.
Nhàn cư vi bất thiện, tán phét mỏi tay quá. Chào cả nhà. Hê hê hê!
(Nguồn: Có Hưởng)


Thứ Tư, 1 tháng 1, 2025

Ôn cố tri tân: ý nghĩa hình vẽ trên cái ấm tích



Ý NGHĨA TRANH VẼ TRÊN CÁI BÌNH TÍCH TRÀ NGÀY XƯA!…
Ngày xưa, chắc nhà ai cũng có cái ấm trà Ông Thọ này...!
Đi kèm theo còn có bộ tách dĩa, thường đặt trên cái bàn dài trước bàn thờ Gia Tiên để rót nước trà mời khách...!
Theo tìm hiểu, một Chú lớn tuổi giải thích đó là bốn chữ:
“Tứ-Hỷ-Tề-Lai” (四喜齊來)
Bốn chữ mang ý nghĩa như sau:
1- Ông Thọ (壽):
Sống được lâu dài cùng con cháu...!
Đây là niềm vui thứ nhất.
2- Con Nai, chữ Nho là Lộc (鹿), đồng âm với lộc (祿): bổng lộc..!
Đây là niềm vui thứ hai.
3- Phía trên đầu con Nai có con Dơi. Chữ Nho gọi Dơi là Bức (蝠): Biên Bức (蝙蝠); chữ Bức (蝠), đồng âm với chữ Phúc (福)
Đây là niềm vui thứ ba: được hưởng Phúc, có Phước...!
4- Đứa Trẻ đang chơi với con Chim giống như con Vịt. Loài này sống trên nước; con Trống gọi Uyên (鴛), con Mái gọi là Ương (鴦).
Loài này sống có đôi, rất chung thủy, cho nên mong vợ chồng gắn bó lâu dài gọi là Uyên-Ương. Được như thế thì sanh con nối dõi tông đường, gia đình hạnh phúc. Đây là niềm vui thứ tư.
*Hình ảnh cô gái có lẽ biểu tượng cho sự tươi trẻ thanh xuân trong gia đình...! Một bình tích trà dùng để giải khát, để cùng mượn tách trà đàm đạo,... được mang theo ý nghĩa tốt đẹp của người xưa làm ra, họ mong muốn đến cho mọi gia đình...!
(nguồn: Thầy Hùng)
Cái ấm tích nhà tôi


Thứ Bảy, 15 tháng 6, 2024

ĐƠN KIỆN 1897 BẰNG QUỐC NGỮ



Một lá đơn kiện năm 1897 viết bằng chữ Quốc ngữ, do một người tên Quách Ấu sống ở tổng Thạnh An, thôn Xa Man (nay là Sóc Trăng)
Tổng thạnh an.
Thôn xa man.
Dân ban Triều Châu: Quách Ấu
Xin bẩm quan lớn được hiểu: hồi ngày mùng 2 tháng 2 năm bính thân. Tên Hỉa Ý, tên Thiên Bửu và tên Phụng Tống cùng ngụ làng Sa man có vay của tôi 120 đồng. Giao ước mãn năm thì trả 460 giạ lúa, sẽ trừ hết số bạc ấy. Có tên Kiên Đại làm giấy cho tôi.
Mà nay, 3 tên ấy không chịu trả lúa cho tôi. Nên tôi đến xin quan lớn bắt 3 tên đó tới Toà, xử nó trả 460 giạ lúa. Bằng nó không có trả xin phát mãi tài sản chúng. Nếu không có gia sản thì xin quan lớn bỏ tù nó!.
Kính đơn.
Ngày 13 tháng 2 năm 1897.
Quách Ấu

Thứ Tư, 17 tháng 4, 2024

GONE WITH THE WIND (CUỐN THEO CHIỀU GIÓ)





1936 novel by
Nữ tác giả Margarett Mitchell. Bà sinh năm 1900 tại Atlanta (bang Georgia, Mỹ).
Scarlett O'Hara là nhân vật chính. Người tình và là chồng cô Rhett Butler , một tay buôn súng.
Tôi có mua cả bộ tiểu thuyết này (hai tập). Thế rồi có 3 nữ s/v văn chương đến mượn. Họ chỉ đọc 3 ngày xong luôn. Tôi hỏi "Có hay không?". Hay lắm thầy ạ, bọn em rất cảm ơn thầy. Hay như thế nào? Dạ, bọn em chỉ đọc chỗ nào đôi ấy hôn nhau thôi.
Tôi rất buồn với câu trả lời ấy. Cả đời tôi chưa bao giờ yêu những cô con gái hời hợt, ẻo lả như vậy. Vợ tôi căn dặn: Từ nay không nên cho chúng nó mượn sách nữa. Chúng nó không hiểu biết. Đúng.
Cũng từ đó tôi không thích nghe những người nói văn hoa và dài dòng. Đầu óc họ rỗng tuếch.
Tác giả Margarett Mitchell không thuộc giới văn chương. Cô gái này là s/v y khoa chưa tốt nghiệp. Bố cô yêu cầu về điền trang làm thư kí, phụ trách nhiều vấn đề của trang trại. Mẹ qua đời sớm, toàn chị em gái.
Năm 1923 cô mới bắt đầu đặt bút viết "Gone with the Wind". Đến 1936 mới xong. 1939 được xây dựng thành Film.
Câu chuyện xẩy ra từ 1861 đến 1865. Đó là thời kì nước Mỹ vặn mình đứng dậy để đổi thay, để vươn ra TG. Ngài TT Mỹ Abraham Lincoln đã kí QĐ "Giải phóng nô lệ". Tức những người nô lệ da đen không còn là công cụ sản xuất nữa,mà họ trở thành công dân, bình đẳng trong xã hội.
Việc giải phóng nô lệ gây ra sự choáng váng cho 1/2 nước Mỹ ở miền nam. Phía bắc nặng về công nghiệp, phía nam làm nông nghiệp. Lúa, ngô, khoai, lạc, bông, đậu nành chín rục ngoài đồng không có người thu hoạch. Các nghị sĩ miền nam đòi chia đôi nước Mỹ để lập lại trật tự. Thế là nam-bắc Mỹ đánh nhau to. Máu đổ, đầu tơi, tp, làng mạc bị đạn xới tung.
Một hôm cô Scarlett O'Hara hỏi anh yêu Rhett Butler rằng: "Anh thích bên nào thắng? Bắc hay nam". Rhett Butler tươi cười trả lời: "Theo anh thì càng đánh nhau càng hay. Anh buôn súng đạn nên rất cần có chỗ bán".
Đó là kim chỉ nam cho nước Mỹ. "Mỹ cần có một số điểm nóng trên TG để bán vũ khí".
Gia đình cô Scarlett O'Hara bị khánh kiệt. Chị em phải đào khoai ngoài đồng về ăn tạm. Miền nam thua cuộc. Ngai TT Mỹ Abraham Lincoln ra lệnh: "Không được bắn súng ăn mừng. Khi đoàn tù binh đi qua phải ngả mũ chào, vì họ đều người Mỹ".
Chiến tranh kết thúc nhưng bọn quý tộc miền nam vẫn cay cú. Sạt nghiệp. Chúng bắn chết ngài Abraham Lincoln. Đó là vụ ám sát TT đầu tiên tại Hoa Kì.
Gia đình cô Scarlett O'Hara cũng tan hoang theo. Các con đều chết, anh chị chia tay.
"Cũng đừng thắm lắm chóng phai
Thoang thoảng hoa nhài mà lại thơm lâu".
(NOTES. Các quý tộc điền trang khánh kiệt là một phần "tự truyện"
Giống Nguyên Hồng viết Bỉ Vỏ. Một cô gái xinh đẹp vùng ngoại ô HP được một chàng trí thức đẹp trai mặc đồ tây yêu mến. Khi cô có chửa bụng to dần thì không thấy anh ấy đâu nữa. Cả làng, cả họ ruồng bỏ. Cô phải đi ăn cắp để sống. Năm Cam đã bày cho cô hành nghề. Năm Cam bị CS bắn chết. Cô Tám Bính chuyển sang làm đĩ nuôi con. Đó chính là Nguyên Hồng.
Bộ tiểu thuyết "Tiếng chim hót trong bụi mận gai" (The Thorn bird)
là câu chuyện "tự truyện" của cô Y tá Úc yêu cha cố. Có con cùng nhau)
ST

Chữ quốc ngữ ra đời lúc nào?





Như vậy, có thể khẳng định rằng chữ quốc ngữ ra đời có một quá trình dài từ năm 1618 cho đến 1625 với sự hợp tác của nhiều người chứ không chỉ một người. Và đa số "tác giả" của chữ quốc ngữ đều là người Bồ Đào Nha, người Ý cùng với một số người Việt theo đạo Thiên Chúa góp sức.
Và người được xác định "giỏi tiếng Việt nhứt" và có công lớn nhứt trong việc sáng tạo ra chữ quốc ngữ chính là giáo sĩ Francesco de Pina người Bồ Đào Nha.
Francesco de Pina đến Hội An đầu năm 1617, thành lập trú sở Nước Mặn năm 1618, rồi thành lập trú sở Thanh Chiêm (tức Kẻ Chàm, Dinh Chàm) năm 1623. Từ năm 1619, Pina đến cư trú tại Thanh Chiêm và cuối năm 1625 ông chết đuối trên biển Cù Lao Chàm do vướng áo chùng không bơi được khi thuyền lật.
Thi thể ông được chôn ở sau nhà thờ Phước Kiều (nay là nhà thờ Thánh Andre), thuộc thôn Thanh Chiêm 1, xã Điện Phương, huyện Điện Bàn, tỉnh Quảng Nam. Đây là nhà thờ do chính ông thành lập khi đến cư trú tại Thanh Chiêm và là nơi trú ngụ của nhiều giáo sĩ khác, trong đó có Đắc Lộ.
Sau khi ông mất, một học trò tiếng Việt của ông là giáo sĩ Alexandre de Rhodes (Đắc Lộ) đến Đàng Trong năm 1624, đã ôm tất cả những di cảo của thầy mang về Macau vào năm 1626. Tại Macau thuở ấy còn có hai giáo sĩ cũng chăm chú nghiên cứu chữ quốc ngữ và đã soạn thảo hai cuốn tự điển Việt-Bồ-La và Bồ-Việt.
Đó là hai giáo sĩ Gaspar d’Amaral và Antonio Barbosa cư trú ở Macau gần 10 năm. Đáng tiếc là công trình của họ chưa kịp công bố thì tháng 2-1646 Gaspar mất trên đường biển đi đến nước ta và sau đó một năm thì Barbosa cũng mất vì bệnh.
Trong lời nói đầu cuốn Tự điển Việt - Bồ - La của mình, Đắc Lộ có nhắc đến việc "tham khảo" tài liệu của hai giáo sĩ trên, cho thấy Đắc Lộ đã thừa hưởng những di sản được người khác sáng tạo ra để góp phần hoàn thành cuốn tự điển có tiếng Việt đầu tiên trên thế giới.
Điều đáng tiếc là hiện nay vẫn chưa tìm thấy hai cuốn tự điển của Gaspar và Barbosa đã viết. Rất mong số phận của nó giống như cuốn tự điển của Bá Đa Lộc, tưởng đã cháy mất trong một trận hỏa hoạn ở Cà Mau nhưng lại được tìm thấy vào thập niên 1980.
Nguồn: PGS. TS Tạ Khắc Cư

Thứ Tư, 14 tháng 2, 2024

PHAN KHÔI VIẾT VỀ TRẬN NGỌC HỒI - ĐỐNG ĐA

(Mồng 5 Tết Kỷ Dậu)



--------------------------------------------------------
TẾT VỚI CHIẾN TRANH:
ĂN TẾT VÀO NGÀY KHAI HẠ
[………………………….] [a]
…mở lịch sử ra xem, trước đây bờ một trăm sáu chục năm, chúng ta cũng có một lần đánh nhau với quân Tàu giữa ngày nguyên đán, làm cho cái tết phải hoãn lại đến ngày mồng bảy tháng giêng là ngày khai hạ mới ăn được.
Ấy là chuyện ở đời vua Quang Trung nhà Nguyễn Tây Sơn.
Năm đinh vị (1787), Nguyễn Huệ sai Võ Văn Sĩ cầm quân ra Bắc Hà hỏi tội Nguyễn Hữu Chỉnh. Khi Sĩ ra chưa tới Thăng Long thì Hữu Chỉnh đã bỏ Thăng Long chạy sang Kinh Bắc, và vua Chiêu Thống cũng sợ mà đi trốn đâu mất rồi. Lúc Sĩ đến Thăng Long, bắt được Hữu Chỉnh đem hành hình ở đó thì không có mặt vua Chiêu Thống cho nên Sĩ mới lập Lê Duy Cẩn làm giám quốc.
Kế đó Võ Văn Sĩ bị cáo là mưu phản, Nguyễn Huệ đương ở Thuận Hóa vội vàng dẫn binh ra Bắc bắt Sĩ giết đi; người cũng còn để Lê Duy Cẩn làm giám quốc, và sắp đặt xong mọi việc rồi thì kéo binh trở về Thuận Hóa.
Không ngờ, vua Chiêu Thống không phải chạy trốn mà chỉ là đi tránh chỗ kinh đô ra các tỉnh cùng bầy tôi vận động qua Tàu cầu cứu.
Bấy giờ bên Tàu, Tôn Sĩ Nghị đương làm Tổng đốc Lưỡng Quảng, Tôn được thơ xin viện binh của vua Lê thì tâu cùng hoàng đế Càn Long nhà Thanh mà xin nhận lời. Hoàng đế nhà Thanh phê y lời xin của Tôn.
Mùa đông năm mậu thân (1788), hai mươi vạn binh của bốn tỉnh Quảng Đông, Quảng Tây, Vân Nam, Quý Châu, chia làm hai đạo kéo sang nước An Nam. Đạo thứ nhứt đi do đường Lạng Sơn, Sĩ Nghị cầm đầu; đạo thứ nhì đi do đường Tuyên Quang, một viên Tổng binh cầm đầu nhưng vẫn ở dưới quyền Sĩ Nghị.
Quân Tàu vừa đến Lạng Sơn đã rải ra một tờ hịch, rao có ai bắt sống được hai anh em Nguyễn Nhạc, Nguyễn Huệ thì sẽ được thưởng đầu công. Các tướng giữ thành Lạng Sơn của Tây Sơn bấy giờ là Nguyễn Văn Diệm và Phan Khải Đức nghe lời rao, đều sợ hoảng, kẻ thì xin hàng, người thì bỏ đi trốn. Quân Tàu trẩy tới Kinh Bắc (tức Bắc Ninh bây giờ), vua Chiêu Thống đích thân đến rước và chào mừng họ Tôn. Ngày 21 tháng 11 năm mậu thân (1788) Tôn Sĩ Nghị đứng làm lễ tuyên phong cho vua làm An Nam quốc vương, vì từ hồi Tuyên Thống lên ngôi đến giờ bên Tàu chưa kịp làm cái lễ long trọng ấy.
Sau khi Nguyễn Huệ giết Võ Văn Sĩ, cất Ngô Văn Sở lên làm đại tướng, giao binh quyền cho ở giữ Bắc Hà rồi mới đi về miền Nam. Nhưng khi quân Tàu tràn sang đây, Sở liệu bề chống không nổi, đã truyền lịnh cho các đạo binh rút về giữ mặt Ninh Bình, Thanh Hóa, và cho người vào Thuận Hóa cáo cấp cùng chúa mình.
Bấy giờ 20 vạn quân Tàu, trừ ra một số ít chia đi tuần tiễu các nơi, còn thì đóng cả ở trên bãi cát bờ phía nam sông Nhị Hà. Sĩ Nghị sai bắt nhiều chiếc thuyền kết lại làm cái cầu nổi để cho quân lính đi thông sang bờ phía bắc.
Vua Chiêu Thống đã trở về, các quan trước kia chạy tản lạc, bây giờ cũng dần dần họp lại. Họ rủ nhau đến yết kiến Tôn Sĩ Nghị và xin lập tức ra binh kéo về miền Nam đánh anh em nhà Nguyễn Tây Sơn. Sĩ Nghị trả lời: “Ngày hết tết tới rồi, việc gì mà vội vàng dữ vậy? Đây ta không đánh gấp. Giặc nó còn gầy, để ta nuôi nó cho béo rồi khiến nó đem thịt tới dâng ta!” Nói thế rồi Tôn hạ lịnh cho lui quân an nghỉ, đợi đến ngày mồng sáu ra giêng hãy xuất quân.
Ở Thuận Hóa, Nguyễn Huệ được tin cấp báo, nổi giận thét mắng ầm ầm, và hạ lịnh cho cử binh lập tức.
Các tướng xin Huệ trước khi cử binh hãy lên ngôi hoàng đế để buộc chặt lòng người. Huệ làm theo lời. Liền trong ngày 26 tháng 11 ấy lên ngôi hoàng đế tại Phú Xuân, xưng niên hiệu là Quang Trung. Và cũng liền trong ngày ấy, chính mình làm tướng kéo cả thủy quân lục quân ra Bắc.
Ngày 29, quân đi đến Nghệ An thì trú lại đó hơn mười ngày. Lựa thêm tráng đinh xứ Nghệ, cứ ba tên lấy một, thúc vào quân đội. Cộng cả các quân cũ và mới có được hơn mười vạn và mấy trăm con voi. Làm lễ đại duyệt xong, lại bắt đầu tấn phát.
Ngày 20 tháng chạp đến đèo Ba Dội. Ngô Văn Sở chực sẵn bên đường, sập xuống lạy và xin chịu tội. Vua Quang Trung phán: “Các ngươi, tội đã đáng tội rồi, nhưng nghĩ vì Bắc Hà mới yên, lòng dân chưa phụ, mà các ngươi biết giữ trọn binh lực mình để lánh mũi giặc đương hung hăng, cũng không hại gì lắm, thôi thì ta tha cho đái tội lập công”. Rồi nội ngày 20 ấy đãi tiệc quân sĩ, ngài phán cùng họ: “Hôm nay hãy ăn sơ sài một bữa, đợi đến ngày mồng bảy tháng giêng vào thành Thăng Long rồi sẽ bày diên yến mừng xuân cho luôn. Các ngươi hãy ghi lấy lời ta thử có sai không nhỉ?”
Đêm ba mươi Tết, quân đi qua sông Gián, đánh bại đạo binh của Hoàng Phùng Nghĩa, quan trấn thủ Sơn Nam của nhà Lê. Bao nhiêu quân Tàu đi tuần tiễu ở đó đều bị bắt giết hết, cho nên tuyệt chẳng có tin báo về Thăng Long cho Sĩ Nghị biết.
Đêm mồng ba, quân đến làng Hà Hồi. Ở đó có đồn bảo của quân Tàu, gác súng lớn, chôn ngầm địa lôi, cách phòng thủ rất kiên cố. Quân của vua Quang Trung vây các đồn ấy, lấy ống vọi truyền hô, có tiếng dạ đến mấy vạn người. Trong đồn nghe thấy thế đều run sợ, rồi không giao chiến, quân Tàu tự vỡ tan cả. Hết thảy lương thực khí giới đều bị quân Tây Sơn bắt lấy.
Tảng sáng ngày mồng năm, quân tới sát bên đồn Ngọc Hồi. Trên đồn bắn đạn xuống như mưa. Vua Quang Trung khiến mỗi người lính mang một miếng ván xông vào, còn ngài thì cỡi voi ở đằng sau giục tới. Cửa đồn bị vỡ. Ai nấy đều ném miếng ván xuống đất, cầm dao chặt tứ tung. Quân Tàu không chống lại được, bỏ chạy. Quân Tây Sơn đuổi theo, phá luôn mấy đồn Văn Điển, An Quyết, các quan Tàu, đề đốc Hứa Thế Hanh, tổng binh Trương Triều Long, Thượng Duy Thăng, tri phủ Sầm Nghi Giản đều tử trận.
Bấy giờ Tôn Sĩ Nghị ở nơi đại đồn trên bãi cát, nghe tin, lật đật lên ngựa chạy về phương Bắc. Rồi quan và lính chạy theo. Họ tranh nhau qua cầu, cầu gãy, rơi xuống sông mà chết không biết bao nhiêu, đến nỗi sông Nhị Hà không chảy được. Vua Chiêu Thống cũng chạy theo Sĩ Nghị về Tàu.
Sáng ngày mồng năm, chính mình vua Quang Trung kéo binh vào thành Thăng Long, cái áo chiến bào của ngài mặc nguyên sắc vàng mà biến ra sắc đen sạm, vì ăn mùi thuốc súng.
Đợi đến ngày mồng bảy mới mở tiệc khao thưởng quân sĩ, ăn Tết nguyên đán năm kỷ dậu, cho đúng với lời vua đã phán cùng họ hôm trước. [b]
PHAN KHÔI
Nguồn:
Dân báo, Sài Gòn, s. 202 (14 Fevrier 1940), tr. 3.
Chú thích
[a] Chỗ này báo gốc chấm lửng liền 4-6 dòng; ước chừng có 30-40 từ bị đục bỏ khỏi khuôn in.
[b] Tài liệu này do bạn Nguyễn Kim Hiền tìm được và cung cấp; xin cảm ơn.

Thứ Sáu, 2 tháng 2, 2024

Thư của cụ Phan Châu Trinh gửi vua Khải Định nêu 7 tội lớn của vua




Một tư liệu lịch sử rất hay cần đọc
Năm 1922, vua Khải Ðịnh sang dự cuộc đấu xảo quốc tế ở Ba Lê, cụ Phan Châu Trinh gởi cho nhà vua một bức thư lời lẽ nghiêm khắc buộc Khải Ðịnh phải thoái vị nhường quyền lại cho quốc dân và kể bảy tội nhà vua đã làm và đáng tội chém đầu. Có đoạn cụ đã viết:
“…Một là vì Trinh này đối cùng bệ hạ đã đoạn tuyệt hẳn, không còn một chút quan hệ gì, chỉ đứng vào cái địa vị đối đãi mà thôi, cho nên bức thư này không phải dâng lên cho bệ hạ mà chính là gửi cho bệ hạ, hai chữ bệ hạ mà tôi dùng đây, chẳng qua là cái tiếng xưng hô đã quen trong Hán văn đó mà thôi … ngày nay Trinh này đề thư cứ gửi ngay cho ông Bửu Ðảo là cái tên húy của bệ hạ, để tỏ ý phản đối”.
Bức thư của cụ, sau khi được công bố, khích động được tinh thần tranh đấu của đồng bào trong và ngoài nước.
Xin giới thiệu bức thư này của nhà cách mạng Phan Châu Trinh do Phan Châu Trinh và Lê Ấm dịch, được in trong Thư thất điều NXB Anh Minh, 1958, Huế.
KHẢI ĐỊNH HOÀNG ĐẾ THƯ
Thư thất điều gởi vua Khải Định (bản dịch)
Việt Nam quốc dân Phan Châu Trinh gởi thư cho đương kim hoàng đế
Tôi sinh gặp lúc: trong thời nước nhà nghiêng ngập, ngoài thời các nước đua tranh tiến bộ. Tôi là người yêu bình dân chủ nghĩa, ghét chuyên chế quân quyền,đau đớn vì quan lại tham lam, thường xót vì dân sinh khốn khổ, vậy nên tôi sẵn lòng liều cả sanh mạng tôi, ra gánh vác việc đời, trông mong có cứu lại cuộc hiểm nghèo được chút nào chăng!
Năm 1907, tôi đã gởi thư cho các quan chánh phủ Bảo hộ, hết sức kêu ca,trước bày tỏ tình cảnh khổ sở của dân Việt Nam, sau xin thay đổi theo chính trị các nước văn minh trong thời bây giờ. Những việc tôi đã đề xướng trong lúc ấy đều là sự cần kíp cấp thiết cả: như lập trường dạy tiếng Tây và chữ Quốc ngữ,bày ra hội thương, hội nông để giành lại quyền lợi cho người mình, và thay đổi cách ăn mặc theo cách Âu Tây, v.v… Những việc đó tôi làm trước mắt người thiên hạ, rõ ràng như ban ngày, vậy thời có tội lỗi gì không? Thế mà triều đình nước ta, từ trên đến dưới, cứ khư khư giữ lấy thói chuyên chế cũ để hà hiếp dân ngu,cướp lấy lợi riêng cho mình; ghét việc thay đổi như cừu thù, coi nhân dân như rơm rác, tìm cớ bới việc, phá phách đủ đường, làm cho lòng dân ai ai củng tức giận, để mà giết hại những kẻ thông minh lương thiện trong nước. Sự chống sưu thuế không công bình, xảy ra khắp cả 12 tỉnh Trung Kì trong năm 1908, thời dânvà thân sĩ bị giết và bị tù, kể hơn mấy ngàn người, đau lòng thảm dạ biết bao nhiêu.
Gặp dịp như thế, một người như tôi, có thể nào mà họ chịu bỏ lỏng: phao cho việc này, buộc vào cớ kia, trước thời xử án tử hình, sau lại đày Côn Lôn.
Khốn nạn thay! Nước ta bị nước Pháp bảo hộ đến ngày đó đã gần ba bốn mươinăm rồi, nhưng sự hủ bại vẫn không thay đổi, cách văn minh chẳng hề bắt chước,mà cái nọc độc chuyên chế ức hiếp vẫn còn gớm ghiếc như thế. Vậy thời cái văn minh của nước bảo hộ không có ích gì cho nước bị bảo hộ, mà nước bị bảo hộ cũng không nhờ gì được sự khai hoá của nước bảo hộ, lạ quá! Sự đó trong đời nầy cũng ít thấy vậy.
Nếu tôi không nhờ được cái lòng công bình của mấy người Tây thời tôi còn đâu đến ngày nay. Tôi mà còn sống đến nay, cũng là nhờ cái văn minh thực của người Tây vậy (nhờ có hội Ligue des Droits de I’homme).
Năm 1910, được khỏi tù, năm 1911 tôi được qua Tây để xem xét cái học thuật văn minh Âu Châu. Đã 12 năm, tôi ăn nằm trên cái đất dân chủ, hớp cái không khí tự do, nhờ vậy mà tôi hiểu được lẽ chánh đáng trong thế giới, phần nghĩa vụ của quốc dân, và cũng biết chắc được cái mục đích của nước nhà nên thay đổi như thế nào. Dân ta bây giờ phải đánh thức nhau dậy, phải đồng lòng hiệp sức mà chống cự với lũ vua dữ quan nhơ, phải phá nó cho tan, đạp nó cho đổ; lại phải lấp tận nguồn, cắt tận rễ, làm cho tiệt hẳn sức ma quỉ chuyên chế, nó đã ám ảnh chúngta mấy ngàn năm nay, nếu không làm như thế thời không bao giờ trông thấy ánh sáng mặt trời mặt trăng nữa!
Đó là cái chủ ý và cái mục đích của tôi vậy.
Vậy mà nay tôi nghe Bệ hạ từ khi lên ngôi tới giờ, có làm điều gì ích lợi cho dân không? Không, chỉ nghe có những điều kiêu căng, dâm dục, trái luân lý;nghịch phép tắc; quyền vua muốn cho tôn sùng, thưởng phạt mất cả công chính;hút cái máu mủ của dân nghèo, trau cái xác thịt cho sung sướng, ngược văn minh của thế giới, ngăn đường tiến bộ của quốc dân; nết xấu tính hư, chứa chan đầy nhẩy, không sao mà nói cho xiết được.
Theo luật hiến pháp các nước văn minh trong đời bây giờ, vua nào trái phép,dân có quyền cứ luật mà bắt tội. Tuy ngày nay dân quyền nước Nam còn bị đè nén,hiến pháp còn chưa thành lập, song cứ theo lẽ công bình chung trong đời nay, Bệ hạ không sao mà gỡ tội với chúng tôi được.
Nay tôi trích ra bảy việc quan hệ thứ nhất đến dân, đến nước chúng tôi, bảy việc đó là bảy tội của bệ hạ, tôi sẽ xét đoán bắt buộc như sau nầy, khi bệ hạ được thư này, thì Bệ Hạ phải tự xử lấy.
I. Một là tội tôn quân quyền
Sau khi Bệ hạ lên ngôi, thường ra những Chiếu, Dụ ép dân phải tôn quân quyền, là lẽ gì vậy? Bệ hạ thường nói, nước ta xưa nay vẫn sùng Nho giáo. Nho giáo còn ai lớn hơn ông Khổng, ông Mạnh? Xưa vua Định Công hỏi đức Khổng Tử rằng: “Có câu gì vua nói ra làm nước thạnh vượng được không?”. Đức Khổng Tử rằng: “Có, làm vua khó lắm, mà làm tôi cũng không dễ”. Lại hỏi rằng: “Vậy thời có câu gì vua nói ra, mà làm mất nước không”. Đức Khổng Tử rằng: “Có, ta không vui chi sự làm vui, ta chỉ vui sao cho những lời ta nói ra không ai dám cãi lại”. Thầy Mạnh Tử nói rằng: “Trong nước dân là quý nhất, đất cát và vật sản làt hứ nhì, còn vua là khinh”. Lại nói rằng: “Có ở cho được lòng người cùng dân,mới đáng làm ngôi thiên tử”. Còn biết bao nhiêu là lời nói khác nữa, cũng toàn một ý ấy cả. Bệ hạ xem lại trong 5 Kinh và 4 Truyện, xem có câu nào là tôn quân quyền không? Bởi vì người nào mà ngôi mình ở trên muôn người, thời lòng khiêm nhượng phải xem mình như ở dưới cả muôn người, ấy là cái tinh thần của Nho giáo vậy; nếu người nào hãnh hãnh tự đắc, cậy quyền thế mà ép dân, rằng: “chúng bay phải tôn ta, phải sợ ta, thời người ấy chẳng khác chi tìm đường tự tử vậy”.
Xưa vua Kiệt rằng: “Ta làm vua trong nước nầy, như mặt trời soi trên trái đất, mặt trời mất ta mới mất”. Dân thời trả lời rằng: “Mặt trời kia sao mầy không mất? Chúng ta sẵn lòng chết với mầy, làm cho mầy mất.”
Vua Trụ rằng: “Mạng ta sinh ở trời, chứ chẳng ở dân”. Dân trả lời rằng:“Trời là dân, trời xem là dân ta xem, trời nghe là dân ta nghe.”
Rút cuộc lại vua Kiệt thời đày ra nội Nam Sào, vua Trụ thời đầu treo cờ Thái Bạch.
Ấy là những gương của các ông Vua tôn quân quyền đó. Về sự đó đức Khổng Tử rằng: “Vua Thang đày ông Kiệt, vua Võ giết ông Trụ là hợp theo lẽ trời, mà thuận theo lòng người”, Thầy Mạnh Tử nói rằng: “Nghe giết một người tàn bạo,tên là Trụ chứ chẳng phải giết vua.”
Đấy mới thực là Nho giáo đấy, sách vở còn sờ sờ đấy, đều ghi lại từ tay đức Khổng, thầy Mạnh cả, có phải tôi bày đặt ra tôi tự dối tôi, mà phỉnh người ta đâu.
Những Chỉ, Dụ tôn quân quyền của Bệ hạ, có khác gì cái chiến thơ với Nho giáo hay không? Xưa nay có vua nào nghịch với quốc giáo mà còn được làm vua lâu dài đâu.
Còn theo các học thuyết mà nói, sao gọi là nước? Là hiệp dân lại mà thành nước; sao gọi là triều đình? Là những người được ủy quyền cho, phải thuận theo ý muốn của dân mà làm những việc lợi dân ích nước.
Ông vua hay ông Giám quốc, chẳng qua là người thay mặt cho một nước, cũng như một người quản lý thay mặt cho một Công ty mà thôi.
Ai chịu trách nhiệm ấy, hay hưởng được cái quyền lợi, thời phải làm cho hết các bổn phận mình đối với dân, đối với nước; nếu không thế thời cũng bị phạt,bị tội như mọi người vậy.
Ấy, tự do, bình đẳng, là nghĩa như thế mà các nước văn minh thì nay phải đặt ra quan Nội các Tổng trưởng (tức là Tể tướng) để thay quyền vua hay Giám quốc để chịu lỗi với dân là thế.
Nếu có ông vua, hay ông Giám quốc nào chiếm của dân làm riêng của mình, thời dân buộc tội cũng chẳng khác gì tội ăn trộm ăn cướp; nếu cậy quyền mạnh hành hạ dân làm tôi mọi, thời buộc tôi cũng như đứa bạn nghịch.
Cái lẽ ấy đương thời nó sáng rỡ như ban ngày, ai ai cũng rõ. Phàm những dân các nước văn minh, đều coi lẽ ấy như nước, lửa, lúa, gạo, thờ lẽ ấy như trời đất thần linh; dân nào thuận lẽ ấy thời được thạnh vượng phú cường, dân nào trái lẽ ấy thời phải sa sút hèn hạ.
Xưa vua nước Pháp là Louis XIV nói rằng: “Nước là ta”. Dân Pháp cho là lời nói đại nghịch vô đạo; đến nay người Pháp làm sách chép đến câu đó cũng còn chưa nguôi lòng giận. Cái ý đó có khác gì với nghĩa Nho giáo đâu.
Đức Khổng Tử nói rằng: “Ông vua nào muốn cái sự ghét của dân, thời tai hại tất có ngày đến mình”. Lại nói rằng: “Mọi rợ nó có vua, chẳng bằng những nước văn minh nó không có là hơn”. Ông Mạnh Tử nói: “Nước là nước của dân, chứ không phải của vua”.
Nay Bệ hạ sinh đẻ trong nước Nho giáo, và làm vua trong thì bây giờ là thế kỉ 20, mà nước ta lại đứng dưới quyền nước dân chủ Pháp Bảo hộ, Bệ hạ lại dám tôn mình như thần thánh, nghênh ngang trên đầu dân. Vậy thời chẳng những dân Việt Nam không thể dung được Bệ hạ, mà dân nước Pháp lại càng khi dễ Bệ hạ nữa.
Nay chúng ta thử ghé mắt xem qua tình thế Âu Á, Nhật Bản là nước đồng văn,đồng giống với nước ta. 40 năm trước họ đã lập ra hiến pháp, cho dân được bầu cử nghị viện; việc chính trị trong nước theo công ý của dân, chứ vua không được tự chuyên cả; vì thế nên nước họ được cường thịnh, nay đã đứng đầu trong Á Đông, thế mà họ vẫn hiềm quyền vua còn lớn quá. Vua Minh Trị là vua có danh tiếng công đức của Nhật Bản, mà cuối năm hiệu Minh Trị, ông ta còn bị cái hiềm thích khách, lại năm mới rồi đây, quan Tể tướng Nhật Bản bị giết trong ga xe lửa cũng vì cớ ấy.
Nước Tàu là nước mẹ văn minh nước ta, trong năm 1911 họ cũng đã đuổi vua đi để lập nên nước dân chủ.
Còn như Âu Châu, quyền vua còn ai lớn hơn Hoàng đế nước Nga, thứ nữa thời Hoàng đế nước Đức, và Hoàng đế nước Anh (trong nguyên bản là Úc,có lẽ nhầm?). Trong chiến bại vừa rồi, vua Nga là Nicolas II và cản hà bị giết một cách rất thảm hại; vua Đức Guillaume II phải trốn qua Hà Lan mới khỏi chết; vua Anh Charles I, hai lần trốn về để mưu phục ngôi vua, dân nước Anh họ chống cự lại và đuổi đi như đuổi gà; rút cục lại bị đày chết ngoài một hòn cù lao.
Những ông vua tôi đã kể trên đó, đều là những người anh kiệt, và trí họ cũng biết đủ mọi việc trên thế giới, tuy họ đối với dân có một hai chuyện tự chuyên,song cũng có lắm việc họ làm ích cho nước họ. Những ông vua nào làm nên, thời nước được giàu mạnh, ông nào có bị thua đi nữa, cũng không đến nổi mất nước.Thế mà các nước ấy nó đối với các vua chúng nó một cách rất nghiêm khắc, ghé thọ như là cục thịt dư bướu thịt, gớm họ như con rắn dữ rết độc; việc nhỏ không cẩn thận, thời chúng nó bẻ bắt không thứ; làm việc lớn mà hỏng, thời sự chết chóc theo ngay. Xem đó thời đủ biết cái trí thức những dân đời bây giờ mở mang là thế nào!
Còn nước Nam ta, từ xưa đến nay, vẫn là một nước chuyên chế, trăm việc chính trị vào một tay vua; công việc Triều đình cấm không do dân nói đến (luật ta cấm không cho học trò và dân gửi thư cho vua nói chính trị). Đã 70, 80 năm nay,trên vua thời hèn, dưới tôi thời nịnh; pháp luật thời nghiêm nhặt, dân mất cả tự do (từ thời Gia Long đem luật Thanh về trị dân Việt Nam, là một sự lầm, vì luật đó là luật người Mãn Châu lập ra để trị Trung Quốc, trong luật ấy lắm phép không công bình; xem như khi luật ấy bắt đầu thi hành trong nước ta, ông Nguyễn Văn Thành là một người khai quốc công thần, chỉ vì cớ con ông ta đặt một bài thơ chơi, vậy mà các quan nịnh thần, đem thêu dệt ra, giết cả nhà ông ấy! Thết hời bộ luật ấy độc dữ biết chừng nào!). Từ đó nước ta, dân với vua cách nhau xa quá; các quan ở giữa muốn làm chi thời làm, dân không chỗ kêu ca. Từ triều Minh Mạng về sau, giặc giả nổi lên luôn; đến đời Tự Đức, Tây qua là mất nước,ông bà nhà Nguyễn, trong 200 năm mở mang gần nửa nước Nam, công đức lớn biết là bao nhiêu mà con cháu làm vua chỉ chưa đầy 50 năm, đã bị họa mất nước, là bởi cớ đó, thảm thay! Việc học hành thời hủ bại, nên học trò dốt nát, chỉ biết thi đậu làm quan để ăn cướp của dân, chẳng biết nước nhà là gì.
Vậy cho nên đến nay nước nhà một ngày một sa sút, càng ngày càng tàn mạt,chẳng còn đứng vào bực nào cả; nếu không bị nước Pháp lấy, thời cũng không biếtnước ta trôi nổi vào tay ai!
Cứ sự đã qua đó mà buộc tội, chẳng vua thời ai? Dẫu có anh thầy kiện miệnglưỡi giỏi thế nào, cũng không cãi cọ gì được.
Vậy nước ta từ nay về sau, còn nên tôn quân quyền nữa không? Không, chẳng những là vua không nên tôn, mà ngôi vua cũng nên cất đi kia. Vậy mà vua đến nay cũng còn, thương ôi! Cái trí khôn dân ta lu lấp, thua kém cả người thiên hạ, đã đành nên thương hại, mà cái lòng trung hậu nhịn nhục của nó cũng nên chuộng vậy!
Vậy thời đáng lẽ vua phải hết lòng lo lắng làm việc gì lợi ích cho thỏa lòng chúng nó một tí mới phải. Nay Bệ hạ thời không: lúc chưa làm vua, chẳng nghe có một điều gì là hay, mà sự xấu xa thời đã chán chường trước mắt thiên hạ, chỉ lo chạy ngược, chạy xuôi để lên làm vua cho được; đến lúc làm vua được rồi, chỉ làm việc cho nhân dân oán thán mà thôi. Vậy mà nay còn dựa hơi quyền nọ quyền kia, bắt buộc dân còn phải tôn mình nữa kia!
Chiếu theo luật xưa nay, dân Âu Á chúng nó bắt tội các vua của chúng, mà xử Bệ hạ, thời một cái giết, hay một cái đuổi, hai cái đó Bệ hạ không thể tránh được.
II. Hai là tội thưởng phạt không công bình
Thưởng phat là cái phép lớn của Triều đình. Mạng sống của dân, kỉ cương của nước, đều quan hệ ở đó cả. Đức Khổng Tử nói: “Hình phạt không nhằm phép, thờidân không có chỗ thò tay chân”. Mạnh Tử nói rằng: “Người trên không theo lẽ thẳng, người dưới không giữ phép luật, cái nước như thế, thời thế nào cũng phải mất”. Đời xưa thưởng người phải ở Triều, là tỏ ra người cả nước cùng thưởng,phạt người phải ở chợ, là tỏ ra người cả nước cùng phạt; nếu hai sự đó mà mất cả công bình, thời dân cần gì phải có vua có quan?
Tôi nghe đích rằng: Bọn tên X là bạn chơi bời lẳng lơ với Bệ hạ khi trước,khi bệ hạ làm vua rồi, thằng thời được thăng chức Thống chế để hầu hạ bên mình,thằng thời làm cho Tri phủ, Tri huyện, quan Tỉnh hay quan Kinh v.v… Lại nghe có anh quan Thị lang nọ, vợ anh ta có oán riêng với Bệ hạ lúc còn chưa là vua, khi Bệ hạ lên ngôi rồi, nhơn sự rủi ro nho nhỏ, anh ta bị cách chức đuổi về ngay.Lại một Thượng thơ hay rao bán những cái tịt riêng của Bệ hạ ra ngoài, nhân dịp đó mất chỗ dựa, Bệ hạ tìm cớ buộc tội nặng, xử 8 năm tù, án đã làm rồi, sau nghe anh này rút ra 5 vạn đồng bạc, lại được lại, giáng chưa đuổi về.
Vậy thời sự thưởng phạt, Bệ hạ cứ theo ý riêng của mình, chẳng cần gì phépnước, làm cho thêm sự gian dối lo lót ra. Vua như thế, thời vua làm gì?
Lại nghe Bệ hạ nuôi một tụi lính kín hơn 40 người, để mai chiều đi do thám chốn hương thôn, nơi thành thị, xem có ai gièm chê mình không? Nếu có, thời Bệ hạ hoặc là tìm cách buộc tội ngay, hoặc là dùng cách bí mật làm hại mà không cho người ta biết. Những quân đó rặt là quân côn đồ, cậy thế gần vua, làm điều phi pháp, khiến cho lương dân ai ai cũng sợ hãi, khóa mồm bịt miệng, ra đường gặp nhau chỉ lấy mắt trông nhau mà thôi, thiệt là làm cho nhân dân khổ sở thảm thê.
Xưa vua Lệ nhà Châu là người lắm nét xấu, sợ dân chỉ trích, mới đặt ra một cái phép để khỏi sự chê gièm, cũng làm như Bệ hạ vậy. Ông Thiệu Công can rằng:“Bịt miệng dân khó hơn là bịt miệng sông”, vua Lệ không nghe, sau quả bị dân giết. Sao Bệ hạ không lấy gương đó mà soi?
III. Ba là chuộng sự quỳ lạy
Cái quỳ lạy chẳng qua là để chỉ sự tôn kính đó mà thôi, ngoài ra chẳng có nghĩa lý gì cả. Một người ngồi đồ sộ ở trên, bao nhiêu người dưới phải áo mão dập đầu xuống đất, chẳng những là làm mất cái phẩm giá của loài người, mà lại làm cho người trên sinh lòng kiêu căng, người dưới mất lòng liêm sỉ, thật là một cái lễ phép rất là mọi rợ. (Lễ lạy đời xưa, một người lạy thời phải lạy trảlại, lễ đó hãy còn bên Nhật Bản, nhưng vì phiền quá, nay cũng bỏ).
Các nước văn minh đời bây giờ đều bỏ cái lễ ấy cả, chỉ còn một hai xứ Mường,Mán còn giữ lại mà thôi, thế mà nước ta đến nay vẫn còn giữ thói đó, thực làmột sự xấu hổ cho dân ta biết bao nhiêu.
Năm 1906, quan Tòan quyền Beau ra lệnh bỏ lạy, khốn nạn thay cho các quan lớn Việt Nam không biết xấu hổ, cứ bắt dân giữ cái thói cũ. Đến lúc quan toàn quyền Sarraut lại cấm lạy một lần nữa; nay Nam kỳ và Bắc kỳ đã bỏ cả rồi, mà Bệ hạ cũng cứ khư khư theo cái thói mọi rợ đó, chẳng những không bỏ, lại còn làm cho phô trương thêm ra, Bệ hạ làm hình như thèm cái lạy như thèm ăn uống một món gì ngon sướng lắm. Mỗi khi trong Triều có lễ chầu lạy thời Bệ hạ cho phép người nào chụp ảnh để bán cho khắp cả nước, những ảnh ấy đã truyền khắp cả thế giới.
Khi Bệ hạ qua Tây, các quan tiễn đến ga xe lửa Đà Nẵng, Bệ hạ cũng bắt làm lễ lạy; đến khi tàu tới Marseille cũng thế.
Lễ lạy không phải là lễ văn minh, vua cũng không phải là trời, quan và dân không phải là đày tớ mạt, ga xe lửa và bến tàu không phải chốn Triều đình, mà sao Bệ hạ dám bắt người ta vùi áo mão trong chốn lầm than, xem loài người như loài trâu ngựa, làm cho người ngoại quốc trông vào, chẳng những là chê cười Bệ hạ, mà lại mỉa mai khinh dễ nòi giống Việt Nam nữa. Những sự đó, phàm những người có nhiều ít trí khôn, biết được một tí văn minh thời bây giờ, chẳng ai chịu làm, mà Bệ hạ thời cứ vui vẻ tự đắc mà làm được, thực lạ quá! Vậy không phải một người ngu là gì?
Rất đổi Bệ hạ lạ cho phép người ta dùng thạch cao nắn thành hình người, như lúc Bệ hạ chịu chầu lạy trong lễ đại triều, để trong trường đấu xảo Marseille,Bệ hạ tưởng sự đó là quan trọng lắm hay sao, mà Bệ hạ dám đem ra khoe trước mắt thế gian? Tưởng làm thế nầy: Bệ hạ thời choảnh trên ngai thếp vàng chẳng chút khiêm nhượng nào cả, còn các quan lớn nhỏ râu tóc bạc phơ, cúi đầu khoanh tay mắt thời nhắm hi hí, khòm lưng đứng cả trước Bệ hạ, làm như hình một bầy rái cá đương tế cá, một bầy khỉ đương làm trò. Những người Âu có kiến thức, ai nấy cũng tức cười, vậy có chán ngán không?
Vậy thời Bệ hạ chẳng biết gì là xấu hổ sao? Bệ hạ chẳng quản gì danh tiếngcủa Bệ hạ mặc lòng, còn thể diện nước Nam thời sao?
Trong Kinh truyện rằng: “Những ông vua mà tính ý trái với thiên hạ cả, thế nào cũng bị người làm hại”. “Vua khinh dân như thể là con chó con ngựa, thời thế nào dân cũng coi vua như người đi đường”, (nghĩa là không tình nghĩa gì với vua). “Vua coi mạng dân như cái cỏ cái rác, thời dân cũng coi vua lại như người cừu thù”.
Vậy thời Bệ hạ chẳng qua là người qua đường, hay là người thù địch của dân Việt Nam đó mà thôi, muốn cho dân đừng làm hại đến mình sao được?
IV. Bốn là tội xa xỉ vô đạo
Sau khi Bệ hạ làm vua rồi, thời đã đem lòng chán chê những cung điện cũ ông bà đời trước để lại, liền làm ngay một sở cung điện nguy nga ở làng An Cựu, mua những đồ sứ của Tàu, mỗi lần vài ngàn bạc, đem về đập bể ra, lựa những miếng nào bông hoa đẹp, để gắn những hình con long, lân, qui, phụng, cho thỏa lòng xa xỉ của Bệ hạ. Lại đem bạc tiền thuê người Tây đúc ba, bốn cái tượng đồng của mình, phí tổn ước mỗi cái trên dưới nột vạn đồng bạc, để chưng trong nhà đấu xảo. Báu gì, xảo gì đồ đó mà đấu! Lại từ cái khăn, cái mũ, cho chí cái áo, cái giày, Bệ hạ đều đính vàng ngọc kim cương, giá phí biết là bao nhiêu! Rất đổi lấy vàng luột giát ra làm cái ủng để bao khắp chân, xa phí dại dột, từ xưa đến nay chưa có nghe ông vua nào làm như thế bao giờ.
Lại Bệ hạ lúc qua Tây, xuống tàu từ Tourane cho đến khi qua đến Tây, lúc ở trên tàu, gặp khách bộ hành nào thời những rượu sâm banh hạng nhất là đãi cho thả cửa, chỉ nói những tiền cho “buộc boa” (pourboire) cũng đến 20.000 quan,còn kim tiền kim, khánh thời đụng cho ai nấy, chẳng kể sao hết được.
Ai còn lạ gì, khi Bệ hạ chưa làm vua, trong túi chẳng có một xu, vậy thờitiền đó ở đâu mà tới? Chẳng phải Bệ hạ ăn cắp tiền kho, tiền kín của nước ta,thời tiền đâu?
(Trở lên là sao y bản dịch thủ bút của Cụ Tây Hồ còn giữ được.Dưới đây là ông Lê Ấm dịch tiếp ở bản thủ bút Hán văn)
Than ôi! Ở Trung kỳ nước ta, nông dân thời nghèo khổ đến cực điểm, thiên tai tới tấp, oan vong thường thấy, quan tham lại nhiễu, đất xấu dân cùng, lại thêm trong lúc giặc giã, vật giá cao vọt, tình trạng lưu ly đến nay chưa cứu vớt,xâu thuế nặng nề, gánh vác không nổi; nói đến việc mở mang trí khôn, việc nâng đỡ đời sống thời còn xa lắc xa lơ, sánh với Nam, Bắc kỳ, bên khô bên tươi cũng đã rõ rệt rồi. Thế mà ngân sách còn kêu thiếu hụt, ép dân mua rượu, thuốc phiện để làm giàu công quỹ, trắng trợn như thế còn phải làm, còn nói chi nữa.
Chẳng nói đâu xa, những năm 1916, 1917, 1918 là sau khi Bệ hạ đã lên ngôi rồi, dân các tỉnh Thanh Hóa, Nghệ An, Hà Tĩnh, Thừa Thiên, Quảng Nam, Quảng Ngãi bị bão to lụt lớn hạn lâu, nên phải chết đói, chết dịch, trên báo chương kêu vang luôn, thảm thương như thế còn gì hơn nữa! Nhưng mà chưa từng nghe Bệ hạ làm được một việc từ thiện nào để cứu người sống sót, bố thí một đồng xu nào để giúp kẻ khốn cùng! Như vậy thời Bệ hạ đã dứt hết tình nghĩa với quốc dân ta từ lâu rồi, mà nay lại dám ăn cắp của nước làm của riêng, xa xỉ bậy bả, vứt tiền vào chỗ trống không. Chỉ lấy một việc ấy mà nói, Bệ hạ còn mặt mũi nào,còn tư cách nào mà tự xưng là vua của dân ta?
Giả sử như Bệ hạ lấy tiền làm cung điện đó mà lập một trường Đại học tại Huế, lấy tiền mua mua đồ sứ để đập bể đó mà mua đồ dùng cho nhà trường, lại lấy tiền phung phí dưới nuôi học sinh lưu học tại Pháp cũng được vài mươi người,thời hai cách dùng tiền lợi hại khác nhau biết là bao nhiêu!
Thương hại thay! Quốc dân ta mỗi năm cần cù, đổ mồ hôi sa nước mắt, vợ kêu đói con khóc lạnh, cũng mặc, thân rách lưới, bụng xép ve, cũng mặc, chỉ lo chạy ngược chạy xuôi cho có tiền để nạp thuế cho nhà nước, mà cũng có lòng mong nhà nước làm được điều gì ích lợi chăng? Nhưng mà khi thu thì vơ vét tận xương tủy,đến khi tiêu thì vãi tung như tro bụi như thế thời quốc dân ta tội gì mà phải chịu cực khổ, dâng của cải, máu mủ để cho một người vua u mê tiêu phá một cách dại dột như thế?
Trong khi Bệ hạ vung vãi bậy bạ đó, Bệ hạ há không nghe việc làm của vị tổng thống Trung Hoa là ông Lê Nguyên Hồng sao? Ông ấy thấy kho nhà nước thiếu hụt,thời tự nguyện đem tiền lương của mình hơn 3 triệu rưỡi quan tiền Pháp, trả lạicho quốc dân để đem làm việc từ thiện, các báo Pháp khen ngợi không ngớt.
Ôi! Tàu là một nước đất đai rộng, sản vật nhiều, dân số đông hơn hết trênthế giới, lại là một nước độc lập, họ đói nghèo, không phải là cùng vô sở xuất,thế mà đường đường một vị Tổng Thống một nước lớn, biết yêu nước, biết lo dân,còn không muốn lãnh số lương hằng năm được hưởng, để cho quốc dân bớt gánh nặn gthay; huống chi nay Bệ hạ là vua một nước bị bảo hộ, vị thứ ở dưới quan Toàn quyền, danh hiệu chỉ có trong 12 tỉnh, công nghiệp không hơn gì một tên dân mạt, mà lại dám tự sánh mình như vua trời, việc làm như trộm cướp, ngoài lương bổng ra, còn thêm phí tổn làm cung thất, lại còn tiêu xài bậy bạ nữa, thế là nghĩa lý gì?
Bệ hạ viết thư cho Bộ Trưởng Thuộc địa có câu xưng là “cha mẹ dân”, thử hỏi nước ta xưa nay vốn trọng luân lý gia đình, mà có đâu thứ cha mẹ tàn nhẫn bất lương như vậy? Đổi lại, phải nói là thằng giặc của dân thời đúng hơn. Đó là bốn tội.
V. Năm là phục sức không đúng phép
Bệ hạ tự chế ra một thứ lễ phục kiểu mới, tự mặc ra để ra Triều. Kiểu ấy là trên áo cẩm bào cũ, thêu vào cái cầu vai kiểu Âu, còn cổ áo và tay áo thời đính vài ngọc lòe loẹt, Âu không ra Âu, Á không ra Á, lại trên nón vua thời thêu thêm những hình rồng phụng sáng ngời. Nghe nói khi Đại tướng Jofre qua nước ta, Bệ hạ mặc đồ ấy mà đón tiếp; bây giờ qua Pháp, khi đến điếu mộ danh nhân tử sĩ,cũng mặc đồ ấy. Cũng may là người Pháp ít để ý đến lễ chế nước ta, nên khôngbiết đó thôi, nếu có người hơi rõ, gạn hỏi rằng, Bệ hạ ăn mặc như vậy quả cóđúng với lễ phục nhà binh nước Nam không? Thời chẳng biết trả lời thế nào được.
Thử xem các nước trên thế giới, về lễ phục thời nước nào cũng có qui định,khi tiếp khách, khi duyệt binh, khi triều, khi hội, lễ phục có quan hệ đến quốcthể; phàm người ra làm việc công đều không được vượt khỏi, nếu không thận trọngmột chút, thời đối ngoại mang nổi nhục thất lễ, đối nội mang cái tội trái phép.Ở nước ta trước kia phép nọ cũng rất chặt chẽ, từ vua đến dân đều có thể chế,chép lại ở hội điễn, ban bố làm lệnh chung, nếu ai sai vượt thời hình phạt theongay.
Nếu nói rằng cách mặc xưa không hợp với đời nay, phải cải cách cho hợp thời,thời đó không phải việc không nên làm. Xem như Tàu với Nhật công phục đều theolối Âu Châu thời sao? Nhưng phải đặt làm thể thức nhất định, trên dưới mộtloạt, thay đổi theo mới, lấy lệ công bố ra ai nấy đều phải theo, như vậy thờisao lại không nên?
Nay Bệ hạ lại trái hẳn, tự chế tự mặc, chỉ lo làm sang một mình, người trongnước xem vào không gì là chính đính, lại làm cho tai mắt người ngoài lầm lạc,đã sai phép bang giao, lại làm nhục quốc thể, chiếu luật pháp nước nhà, phảichịu điễn hình. Đó là năm tội.
VI. Sáu là du hạnh vô độ
Sau khi Bệ hạ lên ngôi, thời ra sức khuếch trương nghi trượng nhà vua,thường thường ra đi chơi rông, nào là voi, nào là kiệu, nào là xe nào là ngựa,những người theo hầu, nhiều khi đến hàng trăm, ít cũng ba bốn chục, chiều lạirong chơi thành thị. Trang sức lộng lẫy, nghi thức oai nghiêm, quân hầu nghênhngang, nước ta bốn mươi năm chưa từng có. Người đi đường khổ việc chạy tránh,dân trong nhà chán sự hầu phần, còn Bệ hạ thời dương dương tự đắc, ý muốn tỏcho người ta biết rằng Hoàng đế là sang.
Xét luật pháp các nước văn minh, không có quyền lợi nào mà không có nghĩa vụkèm theo. Nay Bệ hạ tự tôn quân quyền, tự ý làm oai làm phúc, chính trị bỏ lỡkhông mảy may lưu tâm đến. Nhân dân đói lạnh chẳng chút hỏi han, mà lại ngàyngày chơi rông, kiêu căng buông lung, thời còn trách kẻ bầy tôi sao được? Bệ hạthì cao quý lắm đó, còn quốc dân đau khổ thì sao?
Như vậy là chỉ biết quyền lợi, mà không biềt có nghĩa vụ, chiếu theo luật,hễ không làm hết nghĩa vụ thời phải chịu trách nhiệm là cái tội hại nước hạidân, Bệ hạ phải chịu là thủ phạm trước hết. Đó là sáu tội.
VII. Bảy là việc Pháp du ám muội
Bệ hạ qua Pháp chuyến này, người ta kẻ nào có lưu tâm đến quốc sự, phầnnhiều phải suy nghĩ, trước thời ngờ sau thời lo, khi đã biết rồi thời ngó nhaumà cười mĩm.
Mượn cớ rằng đưa Hoàng tử đi học, hoặc đi điếu quân sĩ nước ta tử trận, vàđi xem các thành phố phía Bắc nước Pháp bị tàn phá, thời những việc đó đều làviệc tư của Bệ hạ, không phải việc công của quốc dân ta, lại đó là việc khôngcần kíp gì cả.
Nếu mượn cớ rằng đi du lịch nước Pháp, để khảo sát văn minh của họ rồi đểcải cách chính trị trong nước, thời Bệ hạ không phải là tay làm việc ấy được.Sao vậy? Vì nước Pháp là nước dân chủ, mà Bệ hạ là vua tôn quân quyền, lấy cánvuông mà đút vào lỗ tròn, chỉ có cái hại làm cho hư cán mà thôi. Vả chăng Bệ hạkhông am hiểu tiếng Pháp, mà mấy ông đại thần đem theo, như tên X tên Y đều làbọn hạ tiện nước ta, trí thức họ còn thấp hơn con nít 10 tuổi của Pháp. Lạitrong khi Bệ hạ ở Ba Lê, chỉ có một lần đến trường đua ngựa, cá được 200 quan,còn như những Viện Bác cổ lớn, học đường lớn, thương quán lớn, công xưởng lớn,và những nơi nhóm họp bao nhiêu văn minh tinh túy của nước Pháp v.v… thời chưatừng bước chân vào, nói rằng đi khảo sát, thời khảo sát mà như vậy ư?
Nếu mượn cớ rằng đi dự cuộc đấu xảo Thuộc địa Marseille, thời nước ta là ngày nay có cái xảo để đấu, phi người Bắc kỳ thì thời Nam kỳ là dân ở dưới quyền trực trị của pháp vậy (đấu xảo này Trung kỳ có nghề bện sáo, so với 50năm về trước chưa cải lương chút nào), còn 12 tỉnh Trung kỳ là cái xứ ở dưới quyền chuyên chế của Bệ hạ, thời sĩ phu lòng đen như mực, nông dân xương gầy như củi, có gì là xảo đâu! Chỉ duy đại thần và quan lại của Bệ hạ, thời cái xảo quỳ lạy, cái xảo dua nịnh, cái xảo ăn hối lộ, cái xảo xẻo thịt dân để ăn cho béo cho mập, nhưng tiếc thay! Cái loài quỷ sứ ấy, thời tại Pháp đây, sáu bảy mươi năm về trước, họ đã nhận xuống nước sâu, ném vào lửa đỏ cả rồi, nay Bệ hạđem loài ấy qua, thời không ai còn mà đấu nữa!
Như vậy trong cái màn hắc ám của chuyến du lịch nầy của Bệ hạ, công sắp đặtquỷ quyệt thế nào, cũng không khó gì mà không biết vậy.
Nghe Bệ hạ vài năm trước đây, đã cậy oai chuyên chế, vơ vét của dân, mua đồ xa xỉ hạng nhất của các nước Á Đông và nước mình, tóm thâu tất cả đồ quý báu của các triều trước để lại, chứa đựng có hơn trăm hòm, ngày nay đem cả theo,nhờ người Pháp tên X tên Y vận động, dâng lễ cho đảng quân chủ nước Pháp, để nhờ củng cố ngôi vua cho cha con Bệ hạ và nhờ họ làm hậu viện để mong đạt cái mộng tôn quân quyền, sau thành việc rồi Bệ hạ về nước sẽ thi oai dâm bạo, khóa hết miệng lưỡi quốc dân, rồi sẽ ký điều ước này điều ước nọ để đền đáp. Việc nầy tuy còn ở trong vòng bí mật, nhưng người ta đã đồn rầm ở ngoài, không phảilà không có cớ, theo lời tục ngữ của Pháp “không có lửa mà có khói” ai tin!
Tuy nhiên, nếu Bệ hạ mà dùng kế ấy, há chẳng thất sách lắm sao? Bệ hạ muốn giữ vững ngôi quân chủ, mà lại đi cầu khẩn với dân của một nước dân chủ, Trinh này muốn biết muôn phần không có một phần nào thành công được.
Cái bệnh của Bệ hạ là bởi ngu muội, chưa từng đọc lịch sử cách mạng nước Pháp vậy. Nếu một mai biết được thời sẽ gục đầu chán nản, cuốn gói mà về sớm vậy.
Cuối thế kỉ 18, cái oai chuyên chế của nền quân chủ Âu châu đã lên đến tột bực, thưởng phạt tùy ý, trẩm tức quốc gia, xem nhân dân như nô bộc, vãi tiền tài như đất bụi, cung thất huy hoàng, chơi bời xa xỉ, ăn mặc hoa mỹ, quỳ lạy tôn nghiêm, thật không phải là một ông vua một nước mang hư danh là bán tự chủ như Bệ hạ có thể tưởng tượng được. Thế mà hễ vật đã cực thời phản lại, đó là lẽ tất nhiên. Buổi ấy các danh sĩ nước Pháp, như Lư Thoa, Mạnh-Đức-Tư-Cưu,Phúc-Lộc-Đặc-Nhỉ, v.v… kế tiếp nhau nổi lên phát huy cái nghĩa nhân quyền,chẳng vài mươi năm mà cái thế lực ảnh hưởng ra khắp toàn Âu. Dân tộc Pháp là tiên tiến nhất, huơ tay kêu lớn, ứng lại như vang, ngã rồi đứng dậy, càng tiến càng hăng, cho nên tấu được khúc khải hoàn, mà cái đầu của vua Lộ-Dịch thứ 16của nước Pháp đã bêu cao trên đoạn đầu đài vậy. Bệ hạ qua thành Ba-lê, trông những đường phố rộng rãi, thấy có những tượng đồng nguy nga, đó đều là những tượng kỉ niệm những bậc thánh hiền hào kiệt đương thời đã ủng hộ tự do, cứu vớt mạng dân vậy. Phàm trong thế giới, quân chủ nào vô đạo thì thần ấy chẳng dung.Bệ hạ nên qua chơi công trường Công-cố (Concordre) và cung điện Versailles (Lộdịch đã bị bắt ở Versailles và bị giết ở Công-cố) để điếu cái di tích màn chót nên quân chủ vô đạo, nhơn đó họa may có tự tỉnh chăng.
Từ thời ấy, chính thể nước Pháp đổi làm dân chủ, lập ra nghị viện dân cử,lập pháp, hành pháp, tư pháp, phân tách rõ ràng, mà nghị viện nắm hết chủ quyền của nước. Đến nay, chính phủ chuyên chế không còn dấu vết, nhân loại trông nhiều nước được hưởng nhiều hạnh phúc, tự do là nhờ dân tộc Pháp chảy máu trước mà được vậy. Sao Bệ hạ không xin vào điện Bourbon để nhận thấy cái khí tượng bác ái, bình đẳng, tự do của quốc dân cộng hòa, so sánh lại với cái chính thể chuyên chế đen tối ngàn năm của nước ta, thời thấy rõ cái chủ nghĩa dân quyền thần thánh bất khả xâm phạm, nó đương bồng bồng bột bột như mặt trời giữa trưa,chiếu thấu cả bầu trời, mà về sau chính thể quân chủ tất không có chỗ đứng chân còn nói chi đến việc chuyên chế dã man nữa.
Được như vậy chẳng phải sức người làm nên chăng? Thì đó cũng là luật thiên diễn không thể tránh được vậy.
Ngày nay các dân tộc trên toàn cầu đều xưng nước Pháp là nước tổ dân quyền,không đúng hay sao? Không đúng hay sao?
Đó, một nước danh dự như thế, một dân tộc danh dự như thế, xem lại hơn trăm hòm đồ quý của bệ hạ đáng giá bao nhiêu, lại dám đem bạch bích mà nhem thèm,đem huỳnh kim mà làm đen lòng, đi ngược lại phong triều thế giới, trái với công lý nhân đạo, làm dơ danh dự quốc dân, để vì Bệ hạ giữ cái vận mạng của nền quân chủ chuyên chế nó đã gần tàn như giọt sương ban mai rồi. Nói rằng 20 triệu quốc dân oán là chuyện nhỏ, còn mặt mũi nào đối với vạn quốc trên thế giới ư? Xem vậy Bệ hạ đi chuyến này chắc chắn là thất bại, không còn ngờ gì nữa. Chỉ tiếc thay bao nhiêu mỡ của sáu, bảy triệu quốc dân ta, bao nhiêu cái kho tàng quý báu của nước nhà ta dành dụm mấy trăm năn nay, chỉ vì sự lơ lĩnh nhỏ nhen mà Bệ hạ đem vứt đi một cái, làm chìm lỉm hết thảy theo ngọn sóng Tây dương! Đó là bảy tội.
Trở lên bảy điều, bởi có quan hệ quốc kế dân sinh, nên kể ra để buộc tội.Ngoài ra còn những điều xấu xa không thể kể xiết, bởi không quan hệ việc nước cho lắm, hoặc có dính đến đời tư cá nhân nên không kể đến làm gì.
Ôi! Thế giới ngày nay dân trí tiến bộ mỗi ngày ngàn dặm, trước vài mươi năm nay, vua các nước lập hiến đã đem mọi chánh sự lớn nhỏ của quốc gia, hai tay dâng trả lại cho quốc dân, không dám hỏi đến, duy ngày đêm mong ước được giữ cái hư danh ở trên thần dân, khỏi mất nối dòng để xấu hổ đến tôn miếu, thời đã coi là cái phước lớn tày trời rồi, nhưng đến nay quốc dân họ còn lấy làm khó chịu, còn lo trăm kế để bỏ đi, để đạt được đến cái chủ nghĩa bình dân chân chánh mới hả dạ.
Vậy thời từ nay cái tàn quân chủ trong thế giới cũng không xa mấy, không cần phải khôn ngoan lắm mới biết vậy. Chẳng nói đâu xa, gần đây trong thời Âu chiến, bị quốc dân giết hoặc đuổi đi đã có 38 vua, trong đó có 3 ông Đại hoàng đế rồi.
Như trước đã nói, chính thể nước ta, từ xưa là quân chủ độc tài, chính trị hay dở, quan lại hiền ngu, quốc dân không được hỏi đến. Nay thời thế nước càng ngày càng suy vi, mất cả cái tên Việt Nam trong bản đồ thế giới. Hãy xem các nước Á Đông, Tàu, Nhật không nói, còn Xiêm La là một nước xưa kia dân ta không thèm đứng ngang hàng, thế mà nay họ nghiễm nhiên đứng trong vòng bình đẳng với vạn quốc. Lại như Nam Bắc hai kỳ ở dưới quyền kinh lý của nước Pháp ràng buộc có rộng rãi hơn, nên có sinh sắc hơn. Còn 12 tỉnh Trung Kì thời rên rỉ mãi dưới chính thể chuyên chế vô trách nhiệm, không biết dựa vào đâu để nuối chút hơi tàn! Đó là tội của ai? Tội của ai? Xem đó thời chẳng quân chủ hiện tại phải truất, mà xét đến nguồn gốc nguyên nhân sâu xa, thời quân chủ các thời đã qua cũng không tránh khỏi búa rìu công luận của quốc dân vậy.
Ôi! Xu thế bên ngoài đã như thế kia, mà tình thế nước ta lại như thế này,thời cái ngôi Bệ hạ đã nguy tợ như trứng mỏng, thật có như điều Hiếu Đế nhà Hán đã nói: “Mạng của Trẩm chẳng biết mất còn ngày nào đây!”. Vậy Bệ hạ còn mê muội không biết, tự ví mình với thần thánh, dắt bầy tiểu nhân núp bóng làm càn, công nhiên buông thói ăn lo ăn lót, người ta không nói không kể, dân nói không hay,lại còn nghịch thì thế, trái nhân tâm, nhen lại bếp tro tàn chuyên chế, dứt hẳncái dân khí đã tôn thương lâu ngày, quơ hết châu báu của nước, quét sạch tài sản của dân. Thử hỏi: quốc thổ Việt Nam có phải là tư sản của Bệ hạ hay sao? 20triệu quốc dân há phải là gia bộc của Bệ hạ hay sao? Quan lại nước ta mục nát còn sợ chưa quá chừng hay chăng, mà còn phải có thêm Bệ hạ trướng thêm lòng gian tham nữa? Danh hiệu Việt Nam e còn chưa nhơ nhuốc chăng mà còn phải có Bệ hạ ra dâng mùi hôi thúi, làm cho thiên hạ chê cười khinh dễ chẳng còn kể là loài người nữa? Dầu mỡ của quốc dân ta sợ chưa khô hết hay chăng, mà còn phải có Bệ hạ hoang phí vung vãi nữa? Than ôi! Nước ta tội gì mà phải chịu cái nghiệp chướng ấy! Dân ta tội gì mà phải đội thứ vua quỷ ấy! Nếu không cùng quần chúng trừ khử nó đi, tất phải cùng nó chết đắm nay mai thôi!
Tôi viết đến đây, viết đã cùn tay đã mỏi, giấy đã hết mà điều tôi muốn nói hãy còn chưa hết, tôi phải khăng khăng mấy ngàn lời mà không thôi đó, chẳng phải công kích cá nhân Bệ hạ mà công kích hôn quân vậy; cũng không phải vì tư kỉ của Trinh mà làm; thật là vì 20 triệu đồng bào mà xô ngã chuyên chế, ủng hộ tự do vậy. Thầy Mạnh nói rằng: “Đâu phải ưa biện luận, bất đắc dĩ mà thôi”, tâm sự của tôi cũng là thế đó.
Nếu như Bệ hạ có đủ thiên lương, chút biết hối ngộ, biết quân quyền không thể cậy được, dân oán không thể khi được, thời phải sớm quay về, tự thoái vị trước, đem chính quyền trả lại cho quốc dân ta, để họ trực tiếp cùng dân tộc Pháp, tự mưu lấy lợi ích của họ, như vậy thời quốc dân ta còn lượng tình, không bạc đãi, cái kế Bệ hạ không còn kế nào hơn.
Ví bằng chuyến đi này, thêm lòng táo bạo, không kể gì hết, cứ khư khư cắp ngôi chí tôn, cứ thi oai chuyên chế, làm đứt mạng mạch của nước trong cơn thùy nguy, đánh đắm quốc dân trong kiếp khổ lâu dài, nếu vậy thời Trinh này tất phải: trong cáo với quốc dân, ngoài hiệp cùng với nước Pháp, vì 20 triệu đồng bào, cùng Bệ hạ tuyên chiến quyết liệt, nguyện cho cái đầu của Trinh cùng với quân quyền chuyên chế dã man của Bệ hạ đồng thời rơi xuống đất, quyết không nỡ thấy vài mươi vạn dặm vuông giang san đất nước, vài mươi triệu cha mẹ anh em,phải giao đứt vào tay hôn quân vậy!
Marseille, ngày 14 thàng 7 năm 1922
Ký tên: Phan Châu Trinh
Ghi chú:
1) Thư này viết một bản bằng Hán văn gởi Bệ hạ, lại dịch ra Pháp văn đăng trên báo Pháp và rải truyền đơn, để rộng đường công luận của người Pháp.
2) Giữa tôi với Bệ hạ, đã đoạn tuyệt nhất thiết quan hệ, chỉ đứng trên địa vị đối đãi mà thôi, cho nên nói “gởi” mà không nói “dâng”; còn dùng hai chữ “Bệ hạ” đó là theo Hán văn, xưng hô như vậy cho tiện, chứ không phải là tôn kính đâu.
3) Tôi là người phục tùng Nho giáo, nên không dùng thứ lễ chuyên chế đặt ra từ Tần Thỉ Hoàng về sau (Thỉ Hoàng đốt sách chôn học trò, Khổng giáo đã mất), lễ ấy là hể gặp chữ tên húy của nhà vua thời phải tránh, cho nên đây tôi viết thẳng không kiêng, là tỏ ý phản đối (Nhật Bản đã bỏ lâu rồi, chỉ có ta còn giữ lối đó).
Nguồn: Thư thất điều, NXB Anh Minh, 1958, Huế

Trị viêm đại tràng

Ai có bệnh nên dùng, bài này cũng là kinh nghiệm của già làng, nay thấy bạn này chia sẻ TL đưa luôn! *** “Người Trung Quốc nói người việt na...