Tổng số lượt xem trang

Hiển thị các bài đăng có nhãn TT Võ Văn Kiệt. Hiển thị tất cả bài đăng
Hiển thị các bài đăng có nhãn TT Võ Văn Kiệt. Hiển thị tất cả bài đăng

Thứ Bảy, 5 tháng 9, 2020

THỦ TƯỚNG VÕ VĂN KIỆT KỂ VỀ TỪ KHI CÁCH LY GIA ĐÌNH ĐẾN KHI VÀO U MINH

Do sự giới thiệu của anh Ngô Công Đức, anh Dương Văn Ba, và một số bạn bè thân thiết khác, cuối năm 1979 tôi gặp ông Võ Văn Kiệt để nói chuyện với ông ấy về chính sách của Mỹ đối với Việt Nam cũng như một số vấn đề nông thôn Đồng bằng Sông Cữu Long. Đầu năm 1987 tôi lại được sắp xếp gặp ông Kiệt trong chuyến đi về Vĩnh Long để trao đổi. Nhưng sau đó, mãi cho đến tháng 6 năm 2006, tôi tránh gặp ông (trừ 3 lần có lý do cần thiết) vì tôi muốn dành một khoảng cách đối với những người đang có chức quyền để khỏi bị dị nghị.
Từ tháng 6 năm 2006 đến tháng 3 năm 2008 tôi gặp ông Kiệt nhiều lần để trao đổi về nhiều vấn đề, trong đó có những chặng đường lịch sử của Việt Nam. Tôi có ghi âm những việc ông nói về cuộc đời cũng như những cảm nhận riêng tư của ông; và tôi ghi tay những đánh giá chi tiết của ông về chính sách và một số người làm chính sách trong một vài giai đoạn mà lúc đó tôi nghĩ vẫn còn “nhạy cảm” nên chưa tiện ghi âm. Đằng nào đi nữa thì tháng 3 năm 2008 ông Kiệt và tôi đồng ý là sẽ dành một năm làm việc với nhau về các vấn đề lịch sử Việt Nam từ những năm của thập kỷ 30 cho nên để lúc đó ghi âm và ghi hình đàng hoàng thì tốt hơn. Tháng 4 năm ấy tôi xin đại học bang Maine cho tôi nghỉ dạy một năm không ăn lương để về Việt Nam nghiên cứu (và làm việc với ông Kiệt, nhưng tôi không nói ra). Ông Kiệt cũng đã giới thiệu tôi thỉnh giảng tại Đại học Quốc Gia ở TP HCM trong năm tôi về làm việc. Rất tiếc là tháng 5 Đại học Maine chấp nhận cho tôi nghỉ dạy một năm thì tháng 6 ông Kiệt qua đời.
Những gì tôi đã ghi âm với ông Kiệt là bằng máy các-sét nhỏ (micro cassette) vì lúc đó là để riêng cho tôi ghi nhớ chứ chưa có ý định chia sẻ trên mạng. Bây giờ nhân dịp bị bắt “cách ly xã hội” vì Covid-19 nên tôi nghĩ chắc một số bạn bè cũng có thể dành thời gian nghe giọng nói của ông Kiệt kể về cuộc đời của ông và một số nhận định riêng tư để có thể biết về con người của ông. Nhưng chuyển băng ghi âm ra MP3 rất tốn công. Thêm vào đó là FaceBook không có hình thức đưa âm thanh (audio) lên, chỉ có thể đưa video lên thôi. YouTube cho đưa audio lên, nhưng không có thể viết giới thiệu hay giải thích gì thêm được. Tôi bèn nghĩ cách “nửa chừng xuân” là đưa một số khúc ghi âm lên Google Drive của tôi với hệ mở và chép liên kết trong phần giới thiệu trên trang FB nầy để ai muốn nghe hay muốn tải xuống để nghe sau thì có thể theo liên kết đó.
Hôm nay tôi sẽ đưa lên phần ghi âm ông Kiệt kể từ khi ông “thoát ly” gia đình theo cách mạng đến khi chạy trốn vào U Minh. Phần nầy cho biết vì sao ông quí trọng người dân vì ông đã được họ đùm bọc. Con gái của ông được đặt tên là Hiếu Dân và ông có bí danh Sáu Dân chắc không phải là chuyện tình cờ. Thêm vào đó là ông thường nhắc đến chuyện “chị Tư Hồng” cứu mạng ông 4 lần cho nên có thể vì đó mà ông thường đánh giá cao vai trò của phụ nữ trong xã hội và cách mạng.
Trước khi nghe phần ghi âm ông Kiệt kể giai đoạn ông thoát ly và chạy trốn vào U Minh, tôi xin vắn tắt vài hàng về bối cảnh xã hội và gia đình lúc ông còn nhỏ. Ông Kiệt (tên bố mẹ đặt là Phan Văn Hoà) sinh năm 1922 tại xã Trung Lương, nay gọi là xã Trung Hiệp, huyện Vũng Liêm, tỉnh Vĩnh Long. Trung Lương là một xã nghèo, phần lớn đất đai đã vào tay địa chủ khi ông sinh ra mặc dầu người dân ở đó đã lao động khai phá. Phần lớn xã dân là tá điền. Gia đình ông Kiệt có tất cả là 8 anh em và ông là con út. Có một người vụng trộm sinh ra một đứa con cùng ngày nên giao đứa nầy cho mẹ ông Kiệt làm con nuôi để bịt tiếng tăm là có con hoang. Đây là chuyện khó xử, nhưng muốn giúp đỡ cho nên bà mẹ ông Kiệt chấp nhận nuôi.
Trong lúc đó thì một ông chú bà con họ, một đầu ông nội, chuyên làm mướn và không có con nên xin ông Kiệt về làm con nuôi. Ông chú tên là Phan Văn Chi, “ông già” ông Kiệt là Phan Văn Dựa. Lúc ông chú họ đem về làm con nuôi thì ông Kiệt chưa dứt sữa nên mỗi ngày “bà già đem về cho bú, chị dâu cũng cho bú, cả xóm cho bú.” Ông Kiệt chủ yếu ở bên “ông già nuôi, nhưng vẫn chạy tới chạy lui, kêu gọi gia đình bố mẹ…. Cả hai gia đình không biết chữ và làm mướn chung quanh thời vụ.” Khi ông “già nuôi” đi xuống Sóc Trăng, Bạc Liêu gặt thì đem ông Kiệt theo mót lúa. Đến năm 11, 12 tuổi thì ông Kiệt đi ở (làm mướn) để giúp gia đình.
Năm 16 tuổi bà mẹ của ông Kiệt mất. Lúc cúng tuần (100 ngày), ở gần nhà có con ông cậu ruột (ông thứ 4 và “bà già” ông Kiệt thứ 7). Ông cậu ruột nầy, tên Hà Văn Út, hoạt động cách mạng (báo Dân Chúng năm 1938 có nói về ông nầy) về thăm và “phát hiện” ông Kiệt. Sau đó ông Út về nhiều hơn và nói với ông Kiệt về vấn đề Pháp thuộc và chế độ nầy đã đem lại sự bất bình đẳng trong xã hội như thế nào, v.v. Ông Kiệt thấy hay quá nên theo “tổ chức hội ái hữu tương tế” để đoàn kết, đấu tranh giảm tô, giảm tức. Vì tích cực trong hội tương tế ông “được đi ấp nầy, ấp khác, thoát cảnh ngục tù trong xóm làng.” Lúc 18 tuổi ông Kiệt được ông Bí thư Tỉnh uỷ (tên Tạ Uyên, người Ninh Bình) kết nạp, nhưng chưa đủ tuổi vào đảng. Sau đó vì Pháp khủng bố và bắt nhiều người bỏ tù, ông Kiệt chuyển vào hoạt động bí mật. Ông Kiệt phụ trách chi bộ xã. “Chị Tư Hồng” về làm thay ông Huyện Uỷ.
Sau đây là liên kết khúc ghi âm ông Kiệt kể về giai đoạn từ khi ông “thoát ly” đến lúc chạy vào U Minh. Nếu người đọc và người nghe thấy bổ ích thì xin cho biết ý kiến để tôi cố gắng dành thời gian nạp thêm các phần ghi âm khác
Tiện đây, tôi cũng xin đưa lên hai tấm ảnh chụp với ông Kiệt. Tấm đầu là vào cuối tháng 6 năm 2006 khi ăn cơm trưa với ông tại nhà khách đường Tú Xương, TPHCM. Tấm thứ hai là giữa tháng 3 năm 2008 khi ăn tối ở biệt thự số 6 Phủ Tây Hồ, Hà Nội. Môi cả hai người đang hoen rượu vang đỏ!

THỦ TƯỚNG VÕ VĂN KIỆT NÓI VỀ SAU NĂM 1940 ĐẾN KHÁNG CHIẾN CHỐNG PHÁP

Sau đây tôi xin chép liên kết phần ghi âm với ông Kiệt về thời kỳ từ năm 1940 đến kháng chiến chống Pháp. Phần nầy dài hơn một tiếng đồng hồ và tôi cứ để ông Kiệt tự nhiên kể chuyện. Người nghiên cứu sử, có lẽ khác với một người làm báo bình thường, là lúc đầu phỏng vấn cứ để cho người kể thoải mái và không ngắt lời. Một trong những lý do là muốn biết đương sự quan tâm cái gì, nhớ đúng hay sai, và qua đó có thể nhận định bước đầu là người đó như thế nào và sau đó nên trao đổi như thế nào và cần khai thác những khía cạnh gì hay chi tiết gì. Người đi nghiên cứu qua phỏng vấn các nhân chứng lịch sử hay các nhân vật chính trị phải biết sâu các giai đoạn lịch sử qua các tài liệu gốc, tức là các tư liệu và văn kiện trong các kho lưu trữ, và các phân tích trong các sách báo trước khi đi phỏng vấn. Có khi một vấn đề nào đó phải trao đổi, chứ không phải chỉ ngồi nghe và ghi âm, với đương sự cả chục lần để hai bên mới có thể cùng nhau nhận định sự việc một cách rõ ràng hơn.
Phần ghi âm cho thấy ông Kiệt cho nhiều thông tin xác thực và những nhận định khá trung thực. Ông cho biết là trong cuộc kháng chiến chống Pháp ông “nhớ lại thì đúng là phơi phới vì tinh thần ái quốc của dân,” mặc dầu lúc đầu có ấu trĩ, nghi ngờ, cực đoan và oan sai cho nhiều người. Nhưng đến năm 47-48 thì có điều chỉnh và do đó đã tập hợp tầng lớp trí thức và tiếp cận được trí tuệ của họ. Ông Kiệt có nhắc đến một số nhân vật trí thức ông làm việc cùng, đặc biệt là ông gắn bó với ông Nguyễn Thành Nhơn. Ông Nhơn là dân Tây và là địa chủ. Ông “già vợ” của ông Nhơn là cai tổng, nhưng bảo vệ cán bộ. Ông Nhơn được kết nạp đảng năm 1946 và năm 1948 được vào thường vụ Tỉnh Uỷ Rạch Giá, rồi lên đến chủ tịch và bí thư những năm 1948-49. Người nghe băng ghi âm nầy nên chú ý đến những gì ông Kiệt nói về ông Nguyễn Thành Nhơn và phản ứng của ông Nhơn ra sao sau khi thấy được vấn đề phân biệt thành phần giai cấp từ miền Bắc tràn vào do ảnh hưởng lớn của Trung Quốc. Ông Kiệt đầu năm 1950 ra Bắc và đầu năm 1953 mới về miền Nam và có đến thăm ông Nhơn. Cũng nên chú ý việc ông Lê Đức Thọ bảo ông Kiệt nên thuyết phục ông Nhơn đi tập kết, v.v.

THỦ TƯỚNG VÕ VĂN KIỆT NÓI VỀ CHUYỆN LẤY VỢ

Kèm theo đây là liên kết khúc ghi âm ông Kiệt nói về chuyện hỏi vợ và lấy vợ. Khúc nầy chỉ có khoảng 14 phút. Tôi đưa lên đây vì chuyện nầy phản ánh vấn đề xã hội và chính trị lúc bấy giờ. Người mà ông Kiệt được mai mối là con gái út (thứ 7) của một gia đình địa chủ. Gia đình chia ra hai nhóm, nhóm đồng ý và nhóm chống. Kể cả nhóm đồng ý cũng có các ý kiến khác nhau. Vì ông Kiệt phụ trách đồn điền mà ông Phạm Ngọc Thạch đã hiến cho cách mạng, kể cả người cai quản đồn điền dân Tây tên là Nguyễn Quý Nhơn, nên ông Kiệt tình cờ gặp người anh thứ 6 của cô gái, lúc đó 18 tuổi. Người anh nầy tranh thủ với cha và cuối cùng gia đình đồng ý cho ông Kiệt lấy người em gái.
Câu cuối ông Kiệt nói trong băng ghi âm là: “Thì cũng đến chuyện trục trặc nữa là sau đâu hơn 1 năm tôi xuống Bạc Liêu rồi ở trên quyết định tôi đi dự đại hội. Thì như vầy là nhà tôi cũng…” Ông Kiệt nói chưa hết lời thì tôi vội tắt máy ghi âm. Lý do là tôi không muốn ông ấy phải thố lộ chuyện khó xử của vợ. Số là khi ông Kiệt đi ra Bắc từ đầu năm 1950 đến cuối năm 53 thì có gặp bà Hồ Thị Minh, chủ bút đầu tiên của tờ Phụ Nữ Cứu Quốc Nam Bộ, và sinh ra một người con đặt tên là Phan Thanh Nam.

THỦ TƯỚNG VÕ VĂN KIỆT NÓI VỀ TỔ CHỨC VÙNG SÀI GÒN - GIA ĐỊNH

Hôm nay tôi xin chép liên kết khúc ghi âm ông Kiệt kể về thời kỳ tổ chức Sàigòn-Gia định mà tôi đã tải lên My Drive (Google Drive). Nhưng trước hết tôi xin cung cấp một số thông tin ngắn gọn.
Sau Hiệp định Genève (Geneva) thì hệ thống công tác ở Miền Nam từ trên xuống dưới như sau: 1) Xứ Uỷ, 2) Liên Tỉnh Uỷ, 3) Huyện Uỷ, và 4) Cơ sở xã.
Ông Kiệt được tham gia trong Xứ Uỷ và trong ban chấp hành liên bộ tỉnh Hậu Giang. Ông Lê Duẫn làm bí thư Xứ Uỷ. Đến sau Tập kết xong thì đến năm 1958 ông Kiệt được điều về thay cho ông bí thư Liên tỉnh Miền Đông. Nhưng sau khi gặp Xứ Uỷ thì ông Kiệt không phải thay cho Xứ Uỷ Miền Đông mà thay cho ông Mười Cúc (Nguyễn Văn Linh) ở Sàigòn. Ông 10 Cúc về làm phó bí thư Xứ Uỷ. Ông Lê Duẫn ra Hà Nội thay ông Trường Chinh và ông 10 Cúc thay ông Lê Duẫn làm bí thư Xứ Uỷ.
Khi về phụ trách Sàigòn ông Kiệt xin Gia định được tách ra khỏi Miền Đông và nhập vào Sàigòn để thành lập Khu Uỷ SG-Gia định, gọi là T-4 (Tiền Phương 4). Lý do tại sao và kết quả như thế nào thì ông Kiệt giải thích trong phần ghi âm. Ông Kiệt trực tiếp phụ trách T-4 gần như liên tục từ 1959 đến cuối năm 1970. Cuối năm 70 đến năm 73 ông là bí thư Tây Nam Bộ (T-3) và rút về thường vụ Trung Ương Cục để chuẩn bị Chiến dịch Hồ Chí Minh.
Ông Kiệt và những người cộng tác với ông, như ông Trần Bạch Đằng, đặc biệt chú trọng đến “bộ phận trí vận”, tức theo ông nói trong phần ghi âm, là hợp tác “với tất cả các khuynh hướng mà họ có ý thức dân tộc, là những người yêu nước với chính kiến khác nhau… Cho nên nó cũng có một cái hoà hợp, một sự gắn bó chớ không có gì mà nghi kị, gọi là thành phần nầy thành phần khác.” Ông cho biết là ông Trần Bạch Đằng bị cấp trên kiểm điểm về việc cho rằng phong trào đô thị không nên theo lý thuyết giai cấp công nhân là nồng cốt mà nên theo thực tiễn, tức là vai trò của trí thức và sinh viên học sinh mới là then chốt.

THỦ TƯỚNG VÕ VĂN KIỆT NÓI VỀ MẬU THÂN VÀ HẬU QUẢ CỦA NÓ

Sau đây tôi xin chép liên kết phần ghi âm nhận xét tổng quát của ông Võ Văn Kiệt về Tết Mậu Thân và hậu quả của chiến dịch nầy.
Vấn để đi vào chi tiết tôi xin ông Kiệt là để dịp khác ghi âm. Vả lại đã có một số hội thảo và bài viết chi tiết trước đó rồi. Một ví dụ là “Số đặc biệt 20 năm Tết Mậu Thân” của Tạp Chí Lịch Sử Quân Sự (số 2 năm 1988), Viện Lịch Sử Quân Sự Việt Nam của Bộ Quốc Phòng. Trong số nầy có bài của các ông Lê Đức Thọ, Trần Văn Quang, Trần Độ, Hoàng Văn Thái, Trần Bạch Đằng, và Trần Văn Trà. Số nầy chỉ đăng phần 4 bài của ông Trần Văn Trà. Sau đó, “theo yêu cầu của bạn đọc,” tạp chí đăng tiếp 3 phần trên dưới tựa “Tết Mậu Thân: Chiến Công Hiển Hách” (số 4 năm 1988, trang 8-23).
Bài của ông Lê Đức Thọ có một đoạn như sau (trang 8-9):
“Cuộc Tổng công kích và tổng khởi nghĩa Tết Mậu Thân là đỉnh cao của quá trình chống Mỹ--kể từ khi Mỹ đem quân vào miền Nam nước ta cho đến lúc phải ngồi vào bàn đàm phán. Tuy vậy cuộc tổng tấn công ấy đã mắc sai lầm là: chủ quan, đánh giá không đúng, trong tương quan lực lượng giữa ta và địch, đánh giá quá cao về phong trào quần chúng nổi dậy và khởi nghĩa ở đô thị. Vì thế chúng ta đã đề ra chủ trương lấy tổng công kích và tổng khởi nghĩa để giành chính quyền toàn miền Nam. Mặt khác, chúng ta đã xem tổng công kích, tổng khởi nghĩa là một giai đoạn, một quá trình nhằm kết thúc chiến tranh; nên đã nhằm vào đô thị liên tiếp mở hết đợt tiến công này đến đợt tiến công khác, để bị tổn thất nhiều mà không đạt được mục tiêu đã định. Đến cuối năm 1968, khi lực lượng ta đã tổn thất nhiều, yếu tố bất ngờ không còn nữa thế mà ta vẫn còn chủ quan sai lầm ra nghị quyết về tổng công kích, tổng khởi nghĩa vào đô thị như hồi Tết Mậu Thân. Vì thế địch đã tập trung lực lượng bình định ở nông thôn và đối phó với ta ở đô thị, gây cho ta khó khăn trong hai năm 1969, 1970.”
Trong suốt bài ông Thọ không định nghĩa “chúng ta” là ai, không cho biết ai “chủ quan, đánh giá không đúng, trong tương quan lực lượng giữa ta và địch, đánh giá quá cao về phong trào quần chúng nổi dậy và khởi nghĩa ở đô thị,” và cũng không cho biết “chúng ta” nào đã ra lệnh “nhằm vào đô thị liên tiếp mở hết đợt tiến công này đến đợt tiến công khác, để bị tổn thất nhiều mà không đạt được mục tiêu đã định.” Sau chiến tranh chấm dứt rất lâu những người nghiên cứu mới biết chính ông Lê Đức Thọ là người đã đi vào Nam ra lệnh các đợt công kích tiếp theo. Nhưng trong bài ông Thọ có nói vài lần là phong trào quần chúng trong các thành phố không đáng kể. Có lẽ vì thế mà ông cho rằng “… ta vẫn còn chủ quan sai lầm ra nghị quyết về tổng công kích, tổng khởi nghĩa vào đô thị như hồi Tết Mậu Thân” chăng? Sau đó, trong bài “Đồng chí Lê Đức Thọ nói về một số vấn đề tổng kết chiến tranh và biên soạn lịch sử quân sự” đăng trong số tháng 3, Tạp Chí Lịch Sử Quân Sự (trang 1-10), ông Thọ lại khẳng định chẳng có việc nổi dậy ở các thành phố và phong trào đô thị cùng lắm cũng chỉ làm cho các chính quyền ở Miền Nam bị quấy nhiễu một chút mà thôi.
Trong phần 4 bài của ông Trần Văn Trà có một câu như sau (trang 39):
“Đây quả là một cách đánh rất độc đáo của chiến tranh cách mạng kết hợp với khởi nghĩa võ trang, đánh từ trong ruột đánh ra, kết hợp với đánh từ ngoài vào, đồng loạt khắp các nơi, bằng nhiều kiểu đánh của từng người, từng đơn vị lớn, nhỏ khác nhau, tổ chức trang bị khác nhau. Đây còn là sự kết hợp hành động bằng mọi cách giữa quần chúng cách mạng và lực lượng vũ trang—quần chúng cách mạng thì ở nông thôn hay đô thị đều có—kết hợp tiến công và nổi dậy. Có người cho rằng Tết Mậu Thân chỉ có tổng công kích mà không có nổi dậy. Đó là phủ nhận một sự thật hiển nhiên và sai lầm về nhận thức. Chủ trương và cố thực hiện của ta là tổng công kích—tổng khởi nghĩa, khi nổ ra thì tổng công kích thực hiện được nhưng chưa đủ liều lượng để phát động tổng khởi nghĩa—đây là điều kiện thiết yếu trong hoàn cảnh có chiến tranh ác liệt—nên không xảy ra tổng khởi nghĩa. Không xảy ra tổng khởi nghĩa không có nghĩa là không có nổi dậy từng nơi từng lúc. Không có nổi dậy của quần chúng thì không thể đánh theo kiểu Mậu Thân được. Cách đánh của Mậu Thân quả thật là độc nhất vô nhị trong chiến tranh từ trước đến nay mà lực lượng ta dùng là lực lượng tổng hợp quân sự, chính trị, trong và ngoài nước.”
Có thể nhận định trên khác với khẳng định của ông Lê Đức Thọ, đặc biệt là trong bài số tháng 3 năm 1988, cho nên Tạp chí LSQS mới đăng 3 phần trên bài của Tướng Trà trong số 4 “theo yêu cầu của bạn đọc” như đã đề cập. Ở đây tôi chỉ muốn trình bày sơ qua một vài lý do tại sao tôi muốn nghe ý kiến của ông Kiệt. Tôi xin người nghe băng ghi âm lưu ý là khi tôi hỏi nhẹ nhàng về vai trò của ông Lê Đức Thọ trong việc đưa chỉ thị đánh tiếp các đợt sau thì ông Kiệt ngập ngừng một tý rồi lướt qua chuyện khác. Tôi nghĩ không phải ông Kiệt tránh né, nhưng ông nhắc đến trách nhiệm của địa phương và của Trung Ương Cục ở Miền Nam. Ông nói nếu nghị quyết hay chỉ thị sai lầm thì địa phương phải có trách nhiệm là không thi hành, hay thi hành ngược lại. Ông đưa ra ví dụ là sau Hiệp định Paris Trưng Ương ra chỉ thị không được đánh lại trước các cuộc đánh chiếm của chính quyền Thiệu, nhưng vì phải bảo vệ dân và thành quả của cách mạng ông đã ra lệnh đánh lại. Ông chỉ đề cập sơ qua thôi, nhưng tôi xin cho thêm một vài chi tiết nhỏ sau đây để người nghe có thể hiểu rõ hơn là ông muốn nói gì.
Số là sau khi ký Hiệp định Paris thì chính quyền Thiệu lập tức thi hành chiến lược “hành quân tràn ngập lãnh thổ” để tái chiếm nông thôn với những cuộc đánh bom và dội pháo vô tội vạ, giết hại bao nhiêu dân lành mà các tờ báo Mỹ cũng như các điều trần của các tướng lãnh Mỹ trước Quốc Hội đã cho biết. Năm 1973 ông Lê Duẫn đưa ông Tố Hữu vào Nam ra lệnh phải thi hành chính sách “da báo,” tức là chỉ bảo vệ các lõm ở nông thôn và không được đánh lại. Ông Lê Đức Thọ sau đó cũng đưa ra những chỉ thị còn gắt gao hơn. Trong bài viết đăng trên Tạp chí LSQS (số tháng 3 năm 1988) ông Lê Đức Thọ cho biết là lúc đó có một số vấn đề bắt buộc “chúng ta” phải dè dặt, trong đó có việc cả Liên Xô và Trung Quốc đã cắt hết viện trợ quân sự. Do đó, một số cán bộ vào Nam (ông không nói đích danh ai) để giải thích chính sách cũng đã quá nhấn mạnh việc phải có chiến lược ôn hoà để xây dựng đất nước. Nhưng sau một thời gian chịu đựng ông Kiệt đã bất chấp chỉ thị của Trung Ương và ra lệnh cho ông Lê Đức Anh đánh lại. Ông nói: “Chúng nó tràn ngập lãnh thổ thì mình cũng tràn ngập lãnh thổ.” Với cơ chế lúc đó mà ông Kiệt đã đi ngược với chỉ thị của TƯ để thi hành trách nhiệm của mình đối với địa phương thì khó có thể nói là ông không can đảm. Việc táo bạo nầy đã dẫn đến sự sụp đổ của chính quyền Sài gòn.

THỦ TƯỚNG VÕ VĂN KIỆT NÓI VỀ MỘT SỐ VẤN ĐỀ SAU GIẢI PHÓNG

Sau đây tôi xin chép liên kết về khúc ghi âm ông Kiệt nói về một số vấn đề sau giải phóng và nhận định của ông sau nầy. Ông đầu tiên giải thích về Đại hội 4 vì ông cho đó là đại hội lần đầu tiên đất nước hoàn toàn giải phóng. Ông cho rằng hai vấn đề “nổi trội” nhất của Đại hội 4 là: đường lối xây dựng đất nước và quyết định đổi tên nước và tên Đảng.
Trong phần ghi âm nầy ông Kiệt giải thích tại sao ông nghĩ như thế. Ở đây tôi chỉ xin lưu ý người nghe mấy câu nói như sau ở ngay phần đâu băng ghi âm:
“Hội nghị có thể nói là sôi nổi nhất. Sôi nổi ở đây không phải là tranh luận với nhau về đường lối, về đường lối mới. Mà lẽ ra thì phải kềm chế cái mức tình cảm, cái mức say sưa… Đại hội tưng bừng, phấn khởi vô cùng. Nhưng trong đó lại không kềm chế được cái tình cảm, cái tưng bừng đó, đi đến các quyết định không phù hợp.”
Sau đó ông kể tiếp:
“Tên tuổi của Đảng, của nước, ra làm sao thì trông cậy vào hết các ông anh của mình, mấy đồng chí lãnh đạo kỳ cựu, có uy tín, có uy tín lớn…. Thành ra lúc bấy giờ mình cũng không biết, mình cũng không nhớ, là đưa ra bàn cãi như thế nào. Chẳng có bàn cãi gì cả…. Thế là như vậy thì một số, gần như một số đồng chí có uy tín cao, nói là đại hội, nhưng có uy tín cao, gần như quyết định các vấn đề…”

THỦ TƯỚNG VÕ VĂN KIỆT NÓI VỀ TỔ CHỨC THỰC HIỆN TỪ NĂM 1975 VỀ SAU

Sau đây là liên kết một đoạn ghi âm ông Kiệt nói qua về một số vấn đề liên quan đến tổ chức thực hiện các chính sách của Đảng và một vài nét chấm phá về một số nhân vật lãnh đạo mà ông có làm việc cùng. Tuy chấm phá nhưng khúc nầy dài khoảng 50 phút.
Trước khi vào đoạn đầu phần ghi âm nầy ông Kiệt có cho biết là mặc dầu Đảng đã đưa ra chính sách, nhưng khi ông Kiệt tổ chức thực hiện thì ở trên lại thường bảo phải làm thế nầy thế kia. Ông Kiệt phản ứng thì bị xài xể. Băng ghi âm bắt đầu với câu sau:
“Thật ra tôi nói làm thế nầy không được. Tôi nói phần tôi chứ tôi không nói ấy gì cả. Tôi giúp cho các anh làm. Tôi thích làm mô hình mở. Mà thật ra cái đó tôi say sưa… Thôi các anh phân công cho tôi…” Và ông nói tiếp là nếu giao cho ông một tỉnh nào thì phải cho ông làm theo “mô hình mở,” tức là được thực hiện tự do miễn là có kết quả tốt.
Vài nét chấm phá về một số nhân vật thì ông Kiệt có kể về Tố Hữu. Ông nói trước khi chiến tranh chấm dứt, khi ông Tố Hữu vào tranh thủ ở Nam Bộ thì đối xử có vẻ đàng hoàng. Rồi ông nói tiếp: “Đến Đại hội 5 thì cũng dự khuyết với nhau thôi thì ảnh, ổng, cũng thấy mình quyết liệt… nên ổng nói với mấy ông khác là may mắn còn được Sáu Dân… Nhưng mà khi ra làm với ổng thì thấy làm không được. Không được. Với cái con người đó. Ổng muốn quạt lúc nào thì ổng quạt…”
Tôi xin thêm một ít thông tin về chức vụ của ông Tố Hữu cho người đọc và người nghe băng ghi âm nào không nhớ rõ: Năm 1976, ông Tố Hữu được làm Uỷ viên dự khuyết Bộ Chính Trị, Bí thư Ban chấp hành Trung Ương, Phó Ban Nông Nghiệp Trung Ương; năm 1980, ông được lên làm Uỷ viên chính thức Bộ Chính Trị; năm 1981 ông trở thành Phó chủ tịch Hội đồng Bộ trường, rồi phó chủ tịch thứ nhất Hội đồng Bộ trưởng cho tới năm 1986. Thêm vào đó ông còn là Bí thư Ban chấp hành Trung Ương.
Về ông Trần Đức Lương, chủ tịch nước từ tháng 9 năm 1997 đến tháng 6 năm 2006, thì ông Kiệt có nhận xét như sau: “Ông Lương ổng vô ổng cũng chịụ khó lắm. Mà ổng thấy tội lắm. Ổng nói vô học, vô nghiên cứu cơ chế của phường, của nầy khác, ổng đem về ổng… Ổng xin tình nguyện hẳn hòi. Ổng đang làm Uỷ viên Bộ Chính Trị, phụ trách tổ chức, tình nguyện, xung phong, làm Bí thư Thành uỷ. Sau một thời gian ổng thấy cũng làm dội, làm không vô. Cho nên người ta nói ổng dân Hà Nội, không phải là dân của mình. Nói cái đó thì cũng tội cho ổng. Ông Lương tốt lắm đó….”
[Tôi nhầm hai ông Lương phía trên và anh Nguyễn Công Khế có viết cho tôi biết trong comment phía dưới như sau: "Anh Ngô Vĩnh Long, tôi nghĩ đây là chú Sáu Dân nói về ông Lê văn Lương, nguyên là bí thư thành ủy Hà nội vào học hỏi trong này chứ không phải ông Trần đức Lương."]
Sau đó ông Kiệt nói là ông Lương ăn nói rất hay, rất bài bản, nhưng không biết tổ chức thực hiện. Tiếp theo đó ông Kiệt tiết lộ là có nhiều cán bộ ngoài Bắc vào ăn nói cho hay, cho đúng lý thuyết và chính sách, nhưng không muốn làm những chuyện thiết thực. Cho nên ông Kiệt đặt câu hỏi là “tại sao người tổ chức thực hiện quá ít.” Sau đó ông Kiệt tìm được câu trả lời cho chính mình mà ông chia sẻ trong phần ghi âm nầy.
Tôi nghĩ phần lớn phần ghi âm nầy, tuy là những nét chấm phá, nhưng tạo được một bức tranh toàn cảnh cho người nghe. Có chỗ ông Kiệt nói là “hai ông mà rút ra đó sợ, không muốn tôi tiếp tục làm thủ tướng,” thì có thể có người không rõ. Vậy tôi xin nói đó là hai ông Đỗ Mười và Lê Đức Anh. Tại đại hội Đảng lần thứ 8 , tháng 12 năm 1997, ông Đỗ Mười từ chức Tổng Bí Thư và Bí thư Uỷ ban Quân sự Trung ương. Ông Lê Đức Anh từ chức Chủ tịch nước tháng 9 năm 1997 và ông Trần Đức Lương lên thay thế.

THỦ TƯỚNG VÕ VĂN KIỆT KỂ VỀ SAU NĂM 1975 CHO ĐẾN KHI RA LÀM Ở HÀ NỘI

Trong liên kết sau đây ông Kiệt kể về một số vấn đề từ năm 1975 cho đến khi ông được kéo ra Hà Nội làm ở Uỷ ban Kế hoạch Nhà Nước.
Khúc nầy dài 45 phút. Trong đó ông Kiệt có đưa ra một số nhận định về sự cản trở của cơ chế trong việc giải quyết các khó khăn kinh tế và xã hội. Ông đề cập đến việc tập trung quan liêu, đặc biệt là trong Uỷ ban Kế hoạch, và các cách ông dùng để có thể “cựa quậy” trong cái cơ chế ràng buộc đó. Ông đã phải thuyết phục từ dưới lên trên, kể cả “anh Ba Duẫn,” qua những kinh nghiệm thực tiễn.
Theo ông Kiệt, trong giai đoạn sau chiến tranh, ông Lê Duẫn càng ngày càng ít khi nghe ai (một phần vì bị một số nịnh thần bao vây) và cứ “lớp, lớp” những người có ý kiến khác ông ấy. Nhưng vì ông Lê Duẫn cũng đã có những kinh nghiệm thực tiễn nên khi thấy ông Kiệt trình bày những vấn đề thực tiễn thì ông Duẫn hiểu được và ủng hộ.

THỦ TƯỚNG VÕ VĂN KIỆT NÓI VỀ TRỰC THAY CHO TT PHẠM VĂN ĐỒNG

Trong đoạn ghi âm có liên kết sau đây ông Kiệt kể chuyện từ khi ông ra Hà Nội làm tại Uỷ ban Kế hoạch và trực cho Thủ tướng Phạm Văn Đồng. Trực có 3 người là ông Tố Hữu, ông Đỗ Mười và ông Kiệt. Cả 3 lúc đó đều ở trong Bộ Chính Trị, nhưng trực chính là ông Tố Hữu.
Ông Kiệt nói là đều gây ấn tượng với ông nhất, ở Hà Nội cũng như các tỉnh miền Bắc là: “Gần như là ở các nơi không có nghĩ gì đến cái chuyện giao lưu hàng hoá.” Kế tiếp nhận định trên ông Kiệt cho biết là các vùng, các tỉnh, và các huyện, mà ông đã đến thăm ông không thấy có chợ.
Ông cho biết là ngay tại Hà Nội, khi họp rồi thì đi ra ngoài không kiếm được gì để ăn. Ông nói chế độ tem phiếu, bao cấp, và phân phối lúc đó dẫn đến tình trạng mà “bánh mì người ta nói ném chó mà còn chết.” Do đó ông “mời chị Ba Thi ra giúp làm bánh mì” cũng như tổ chức các cửa hàng bách hoá. Ông cũng gọi ông Mười Năng ra tổ chức, bảo đảm cho chuyện ăn uống của công nhân ở Trị An. Ngoài ra cũng tổ chức để cán bộ ở Hà Nội có cái ăn sau các buổi họp.
Gần cuối băng ghi âm, ông kể: “Sau đó ông Tố Hữu ổng phát hiện. Ổng bảo: ‘Dẹp… Không có nồi nhôm sau khi họp được, soong chảo gì ở Hà Nội… Dẹp…’ Còn tôi đến Lữ Gia… các anh em Hà Nội cũng mời khách. Đến đó [ông Kiệt tặc lưỡi], các ông lâu lâu lên coi các sổ sách bắt Lữ Gia ghi lại, coi tên tuổi của ông nào đến ăn phở, ăn nầy kia… Tôi về tôi nói với ông Mười Năng tôi dẹp.”
Sau đó ông Mười Năng và bà Ba Thi bỏ về miền Nam. Theo ông Kiệt thì sau đó bánh mì ở Hà Nội lại cứng như các thanh củi.

THỦ TƯỚNG VÕ VĂN KIỆT NÓI VỀ VẤN ĐỀ ĐI XIN VIỆN TRỢ

Trong đoạn ghi âm nầy, dài khoảng 30 phút, ông Kiệt cho biết tại sao việc đi xin viện trợ giúp ông hiểu thêm vấn đề dân tộc trong việc phát triển đất nước.
Ngay từ đầu băng ghi âm ông Kiệt nói: “Đó thì bắt đầu cái sự sòng phẳng chủ nghĩa xã hội, bắt đầu hiểu cái mối quan hệ anh em giúp đỡ ở cái chừng mực, chừng mực nào. Và cũng từ đó mới bắt đầu thấy cái tự trọng dân tộc… thì nó không, không—mình có thể đánh giá ra được—không có, gần như không có, cái nhục nào bằng cái năn nỉ đi xin người ta.”
Sau khi đưa ra một số chi tiết về các chuyến đi xin viện trợ và cái ông gọi là “tình nghĩa” của các nước phe chủ nghĩa đối với Việt Nam vì sự hi sinh của Việt Nam trong chiến tranh, ông Kiệt nói tiếp: “Nếu nói cái chuyện làm ăn, nói cái chuyện hai quốc gia, hai dân tộc nầy khác, thì cái tình nghĩa đó nó cũng đều có giới hạn hết cả, đều có giới hạn hết. Nếu mình dựa vào cái đó mà đi lên, thì có thể mình không biết mình sẽ đứng hạng nào, và đi lên hạng nào của cái phe xã hội chủ nghĩa.”
Sau khi nói về bài học của Cuba, về đẳng cấp giữa những nước xã hội chủ nghĩa và về việc cải cách của Gót-ba-chớp (Mikhail Gorbachev, Михаил Горбачёв, là Tổng Bí thư của Đảng Cộng Sản Liên Xô từ năm 1985-1991 và Chủ tịch nước trong những năm 1990-1991), ông Kiệt nói tiếp:
“Thì bắt đầu mình tự mình để mà tìm hiểu con đường ra, để góp phần trong đó. Khi mà bắt đầu cái đổi mới của mình, nó hình thành, thì Liên Xô bị sụp đổ, Đông Âu bị… Chính các đều đó nó khẳng định đến cái sự hiểu biết thực tế ngành của mình, nó có giá trị của cái nhận thức của mình. May, tôi nói may, mà mình xin không được, xin được ít, thì nó khó khăn cho mình, cũng có khó khăn. Nhưng mà nếu như xin được nhiều thì mình cũng coi như là một sự lệ thuộc; mà ông Liên Xô bị đắm rồi thì mình cũng đắm theo…”
Sau khi ông đề cập đến sự phận liệt trong các nước xã hội chủ nghĩa và tại sao việc nầy khẳng định nhận thức của ông về vấn đề dân tộc và quốc gia, ông Kiệt nói tiếp:
“Thì tôi nói qua cái chặng nầy, sự tiếp cận của mình, qua thực tế của cái đất nước cũng như thực tế của cái đời sống của phe xã hội chủ nghĩa tôi hiểu được một phần trong cái… Mà đến khi mà mình đổi mới sự sụp đổ nầy [của phe xã hội chủ nghĩa] thì nó có đủ cơ sở mình khẳng định được, chứng minh được… Từ cái bối cảnh đó mình nhìn lại mình thấy đi lên, thì có một đều rất chắc chắn là không thể có cái chuyện đi ngoài dân tộc mà có thể đưa đất nước mình đi lên được.”
Về “đổi mới” thì ông Kiệt có một số nhận định trong đoạn ghi âm nầy, cũng như các đoạn khác. Ở đây tôi xin lưu ý hai câu sau đây: “Thì nói là đổi mới cho nó ngon lành, nhưng thật sự là trở về cái cũ. Mà trở lại chưa đủ.” Ông Kiệt đã có ý kiến với tôi [Ngô Vĩnh Long] là “đổi mới” chưa thay đổi được gì lắm đối với những cơ chế và hệ thống đã được dựng lên mà ông cho là đã kềm hãm sự đi lên của dân tộc và đất nước.
Cuối cùng tôi xin cung cấp một thông tin ngắn về ông Nguyễn Trung mà ông Kiệt nhắc đến 3 lần trong đoạn ghi âm nầy là người đã chịu khó đi khảo sát ở các nước Âu Tây để giúp ông Kiệt khẳng định nhận thức của chính mình về vấn đề dân tộc, quốc gia. Ông Nguyễn Trung trong thời gian đó là trợ lý của ông Kiệt. Trước khi làm trợ lý cho ông Kiệt ông Nguyễn Trung đã là đại sứ của Việt Nam tại Đông Đức và Thái Lan. Khi làm đại sứ tại Thái Lan ông Nguyễn Trung cùng với ông Kiệt đã đóng góp rất lớn trong việc giải quyết vấn đề Việt Kiều bên Thái Lan. Qua đó, quan hệ giữa Thái Lan và Việt Nam đã được cải thiện và việc nầy đã giúp Việt Nam tăng cường quan hệ với khối ASEAN.

Kèm theo đây tôi xin tải lên một tấm ảnh tôi chụp ông Nguyễn Trung (bên trái) và ông Việt Phương (bên phải), trước cửa nhà ông Việt Phương ngày 9 tháng 3 năm 2011. Ông Việt Phương là cựu trợ lý của Thủ tướng Phạm Văn Đồng và là thành viên Tổ Tư Vấn của Thủ tướng Võ Văn Kiệt và Ban Nghiên Cứu Thủ tướng Chính phủ của Thủ tướng Phan Văn Khải. Ông Việt Phương đã qua đời ngày 6 tháng 5 năm 2017.

THỦ TƯỚNG VÕ VĂN KIỆT NÓI VỀ QUAN HỆ VỚI ASEAN SAU ĐỔI MỚI

Về ngoại giao với các nước ASEAN và với Mỹ thì nhiều người biết đóng góp rất quan trọng của cố Ngoại trưởng Nguyễn Cơ Thạch, cố Thứ trưởng Lê Mai và nguyên Thứ Trưởng Vũ Khoan của Bộ Ngoại Giao.
Hình ảnh có thể có: 1 người, kính mắt và trong nhà
Nhưng chắc ít người biết vai trò của ông Võ Văn Kiệt đối trong việc giúp thiết lập quan hệ với các nước ASEAN. Trong đoạn ghi âm nầy ông không đi vào chi tiết về hoạt động của ông, nhưng ông nói là sau khi đổi mới thì “vấn đề cấp bách nhất là đối với ASEAN” và làm sao gia nhập khối ASEAN. Rồi ông cho biết:
“Mà quan hệ được như thế thì nối lại cái quan hệ với Trung Quốc thì có lợi thế cho mình hơn. Cái nầy là thống nhất, không có trở ngại gì. Tức là cũng đều thấy cần phải như thế. Tôi xúc tiến làm cái nầy….”
Dưới đây là liên kết phần ghi âm nói khái quát về chính sách lúc ấy. Tôi cũng nhân tiện xin đưa lên đây một ảnh tôi chụp bằng Polaroid (thứ ảnh chụp lấy liền) trên chuyến bay từ Bangkok về Hà Nội hè năm 1991 (?). Tôi ông nhớ rõ ngày tháng vì ảnh Polaroid không có ghi (tuy có thể tìm lại nếu có thời gian). Lúc ấy ông Kiệt và một phái đoàn đi sang Bangkok đàm phán việc gì đó (tôi không hỏi). Còn tôi thì đi dự một hội thảo ở đại học nông nghiệp Chiangmai. Ảnh chụp nầy là cái xấu nhất trong lúc ông Kiệt đang xem ảnh nên tôi giữ lại cho tôi. Những ảnh đẹp thì tôi đưa cho ông Kiệt và các anh trong phái đoàn.

THỦ TƯỚNG VÕ VĂN KIỆT NÓI VỀ NÔNG NGHIỆP VÀ CÔNG NGHIỆP HÓA

Khúc băng nầy, ghi âm ngày 12 tháng 11 năm 2007, bắt đầu với việc ông Kiệt nói là ông rất đau về chuyện ông đã cùng Ngân hàng Thế Giới (NHTG) đồng tình hợp tác xây dựng một chiến lược phát triển Đồng bằng Sông Cửu Long nhưng không thành. NHTG đồng ý tài trợ một nghiên cứu sâu và chiến lược với sự hợp tác của chuyên gia trong và ngoài nước. Ông Kiệt đem việc nầy nói trực tiếp với “Ba Dũng” (Nguyễn Tấn Dũng), hồi đó còn là phó thủ tướng thường trực, là nên tổ chức một nhóm hay một cơ quan nào đó để làm đối tác với NHTG.
Hình ảnh có thể có: 3 người, mọi người đang đứng và ngoài trời
Rồi ông Kiệt nói tiếp: “Nhưng mà đặt ra ông ta cũng ừ hử nầy khác, hoan nghênh nầy khác, rồi sau đó không làm cái gì cả. Hai lần như thế. Mà cũng không có ai nghiên cứu cả. Thì cái đó ngay bây giờ nó cũng có liên quan đến cả cái chung đi lên công nghiệp hoá, hiện đại hoá. Thì anh cứ để tự phát cái gọi là công nghiệp hoá nầy đó, nó như là hồi mà mới ban đầu đổi mới.”
Về quan hệ giữa nông nghiệp và công nghiệp hoá ông Kiệt có một nhận định như sau:
“Cái kinh tế nông nghiệp, đưa khoa học kỹ thuật vào, những giống, những nầy khác… nâng cao cái chất lượng hiệu quả lên. Rồi chế biến cái nông nghiệp làm ra. Ví dụ như thế. Cái đó là cái chính. Chớ không phải công nghiệp hoá tức là anh kéo cái ngoài vô. Thế thì ít bữa nó thôi, nó ra, rồi nó xả cho anh ba cái rác rưới, ba cái ô nhiễm nầy kia…. Còn cái nông nghiệp thì người ta chăm sóc cái công nghiệp, mặc dầu cái tỷ lệ nó giảm… nhưng mà lại giá trị nó tăng lên.”
Ông Kiệt cho biết là ông cũng hiểu được phần nào là quan chức do dự hay chểnh mảng vì không có thời gian nghiên cứu hay thiếu hiểu biết. Nhưng ông nói: “Thế thì anh cứ làm, chức vụ của anh không có gì lung lay cả, mà nó được củng cố. Làm ơn làm phước mà mời mọc các thứ, huy động các thứ về, nghiên cứu các vấn đề như thế đó thì của mình nó trở thành…. Không làm!”
Các câu cuối cùng trong băng ghi âm nầy như sau:
“Thì còn vấn đề ra là cái gì? Giải quyết được vấn đề nầy là cái gì? Tức là anh tập hợp, anh huy động nhiều cái nhóm nghiên cứu, nhiều cái nhóm chuyên gia nghiên cứu về từng vấn đề thì anh có ngay. Thì anh cứ làm đi. Rồi người ta nghiên cứu rồi anh nghe.”
“Rồi anh nghe,” nghe dễ mà không dễ.
Nhân dịp nầy tôi xin tải lên đây ảnh chụp GS Châu Tâm Luân (bên trái), ông Kiệt và tôi đi thăm một trang trại ở Vĩnh Long trong một chiều mưa ngày 25 tháng 8 năm 2007. Người đứng phía sau là một nghệ nhân khắc tượng đá từ Nghệ Tỉnh vừa mới vào để làm tượng "Chị Tư Hồng" hay "bà mẹ Việt Nam" gì đó ở thị xã Vĩnh Long. Không biết công trình đã được hoàn thành hay chưa?
Ông Châu Tâm Luân là một chuyên gia về kinh tế nông nghiệp. Ông là một trong những nhân vật hàng đầu trong phong trào đô thị đấu tranh cho hoà bình, độc lập và thống nhất. Mặc dầu ông Châu Tâm Luân được ông Kiệt tôn trọng và lắng nghe, nhưng khi ông ta thấy những phê bình thẳng thắn của mình đối với đường lối kinh tế và chính trị sai lầm của Đảng Cộng Sản đã gây ít nhiều trở ngại cho chính bản thân và gia đình ông, ông đã quyết định vượt biên. Ra nước ngoài ông đã làm việc với Tổ chức Lương Nông (FAO, Food and Agriculture Organization) của Liên Hiệp Quốc và định cư ở Thuỵ Sĩ. Ông đã từ trần ngày 4 tháng 9 năm 2016 tại Genève.

Trị viêm đại tràng

Ai có bệnh nên dùng, bài này cũng là kinh nghiệm của già làng, nay thấy bạn này chia sẻ TL đưa luôn! *** “Người Trung Quốc nói người việt na...