Sau đây tôi xin chép liên kết phần ghi âm nhận xét tổng quát của ông Võ Văn Kiệt về Tết Mậu Thân và hậu quả của chiến dịch nầy.
Vấn để đi vào chi tiết tôi xin ông Kiệt là để dịp khác ghi âm. Vả lại đã có một số hội thảo và bài viết chi tiết trước đó rồi. Một ví dụ là “Số đặc biệt 20 năm Tết Mậu Thân” của Tạp Chí Lịch Sử Quân Sự (số 2 năm 1988), Viện Lịch Sử Quân Sự Việt Nam của Bộ Quốc Phòng. Trong số nầy có bài của các ông Lê Đức Thọ, Trần Văn Quang, Trần Độ, Hoàng Văn Thái, Trần Bạch Đằng, và Trần Văn Trà. Số nầy chỉ đăng phần 4 bài của ông Trần Văn Trà. Sau đó, “theo yêu cầu của bạn đọc,” tạp chí đăng tiếp 3 phần trên dưới tựa “Tết Mậu Thân: Chiến Công Hiển Hách” (số 4 năm 1988, trang 8-23).
Bài của ông Lê Đức Thọ có một đoạn như sau (trang 8-9):
“Cuộc Tổng công kích và tổng khởi nghĩa Tết Mậu Thân là đỉnh cao của quá trình chống Mỹ--kể từ khi Mỹ đem quân vào miền Nam nước ta cho đến lúc phải ngồi vào bàn đàm phán. Tuy vậy cuộc tổng tấn công ấy đã mắc sai lầm là: chủ quan, đánh giá không đúng, trong tương quan lực lượng giữa ta và địch, đánh giá quá cao về phong trào quần chúng nổi dậy và khởi nghĩa ở đô thị. Vì thế chúng ta đã đề ra chủ trương lấy tổng công kích và tổng khởi nghĩa để giành chính quyền toàn miền Nam. Mặt khác, chúng ta đã xem tổng công kích, tổng khởi nghĩa là một giai đoạn, một quá trình nhằm kết thúc chiến tranh; nên đã nhằm vào đô thị liên tiếp mở hết đợt tiến công này đến đợt tiến công khác, để bị tổn thất nhiều mà không đạt được mục tiêu đã định. Đến cuối năm 1968, khi lực lượng ta đã tổn thất nhiều, yếu tố bất ngờ không còn nữa thế mà ta vẫn còn chủ quan sai lầm ra nghị quyết về tổng công kích, tổng khởi nghĩa vào đô thị như hồi Tết Mậu Thân. Vì thế địch đã tập trung lực lượng bình định ở nông thôn và đối phó với ta ở đô thị, gây cho ta khó khăn trong hai năm 1969, 1970.”
Trong suốt bài ông Thọ không định nghĩa “chúng ta” là ai, không cho biết ai “chủ quan, đánh giá không đúng, trong tương quan lực lượng giữa ta và địch, đánh giá quá cao về phong trào quần chúng nổi dậy và khởi nghĩa ở đô thị,” và cũng không cho biết “chúng ta” nào đã ra lệnh “nhằm vào đô thị liên tiếp mở hết đợt tiến công này đến đợt tiến công khác, để bị tổn thất nhiều mà không đạt được mục tiêu đã định.” Sau chiến tranh chấm dứt rất lâu những người nghiên cứu mới biết chính ông Lê Đức Thọ là người đã đi vào Nam ra lệnh các đợt công kích tiếp theo. Nhưng trong bài ông Thọ có nói vài lần là phong trào quần chúng trong các thành phố không đáng kể. Có lẽ vì thế mà ông cho rằng “… ta vẫn còn chủ quan sai lầm ra nghị quyết về tổng công kích, tổng khởi nghĩa vào đô thị như hồi Tết Mậu Thân” chăng? Sau đó, trong bài “Đồng chí Lê Đức Thọ nói về một số vấn đề tổng kết chiến tranh và biên soạn lịch sử quân sự” đăng trong số tháng 3, Tạp Chí Lịch Sử Quân Sự (trang 1-10), ông Thọ lại khẳng định chẳng có việc nổi dậy ở các thành phố và phong trào đô thị cùng lắm cũng chỉ làm cho các chính quyền ở Miền Nam bị quấy nhiễu một chút mà thôi.
Trong phần 4 bài của ông Trần Văn Trà có một câu như sau (trang 39):
“Đây quả là một cách đánh rất độc đáo của chiến tranh cách mạng kết hợp với khởi nghĩa võ trang, đánh từ trong ruột đánh ra, kết hợp với đánh từ ngoài vào, đồng loạt khắp các nơi, bằng nhiều kiểu đánh của từng người, từng đơn vị lớn, nhỏ khác nhau, tổ chức trang bị khác nhau. Đây còn là sự kết hợp hành động bằng mọi cách giữa quần chúng cách mạng và lực lượng vũ trang—quần chúng cách mạng thì ở nông thôn hay đô thị đều có—kết hợp tiến công và nổi dậy. Có người cho rằng Tết Mậu Thân chỉ có tổng công kích mà không có nổi dậy. Đó là phủ nhận một sự thật hiển nhiên và sai lầm về nhận thức. Chủ trương và cố thực hiện của ta là tổng công kích—tổng khởi nghĩa, khi nổ ra thì tổng công kích thực hiện được nhưng chưa đủ liều lượng để phát động tổng khởi nghĩa—đây là điều kiện thiết yếu trong hoàn cảnh có chiến tranh ác liệt—nên không xảy ra tổng khởi nghĩa. Không xảy ra tổng khởi nghĩa không có nghĩa là không có nổi dậy từng nơi từng lúc. Không có nổi dậy của quần chúng thì không thể đánh theo kiểu Mậu Thân được. Cách đánh của Mậu Thân quả thật là độc nhất vô nhị trong chiến tranh từ trước đến nay mà lực lượng ta dùng là lực lượng tổng hợp quân sự, chính trị, trong và ngoài nước.”
Có thể nhận định trên khác với khẳng định của ông Lê Đức Thọ, đặc biệt là trong bài số tháng 3 năm 1988, cho nên Tạp chí LSQS mới đăng 3 phần trên bài của Tướng Trà trong số 4 “theo yêu cầu của bạn đọc” như đã đề cập. Ở đây tôi chỉ muốn trình bày sơ qua một vài lý do tại sao tôi muốn nghe ý kiến của ông Kiệt. Tôi xin người nghe băng ghi âm lưu ý là khi tôi hỏi nhẹ nhàng về vai trò của ông Lê Đức Thọ trong việc đưa chỉ thị đánh tiếp các đợt sau thì ông Kiệt ngập ngừng một tý rồi lướt qua chuyện khác. Tôi nghĩ không phải ông Kiệt tránh né, nhưng ông nhắc đến trách nhiệm của địa phương và của Trung Ương Cục ở Miền Nam. Ông nói nếu nghị quyết hay chỉ thị sai lầm thì địa phương phải có trách nhiệm là không thi hành, hay thi hành ngược lại. Ông đưa ra ví dụ là sau Hiệp định Paris Trưng Ương ra chỉ thị không được đánh lại trước các cuộc đánh chiếm của chính quyền Thiệu, nhưng vì phải bảo vệ dân và thành quả của cách mạng ông đã ra lệnh đánh lại. Ông chỉ đề cập sơ qua thôi, nhưng tôi xin cho thêm một vài chi tiết nhỏ sau đây để người nghe có thể hiểu rõ hơn là ông muốn nói gì.
Số là sau khi ký Hiệp định Paris thì chính quyền Thiệu lập tức thi hành chiến lược “hành quân tràn ngập lãnh thổ” để tái chiếm nông thôn với những cuộc đánh bom và dội pháo vô tội vạ, giết hại bao nhiêu dân lành mà các tờ báo Mỹ cũng như các điều trần của các tướng lãnh Mỹ trước Quốc Hội đã cho biết. Năm 1973 ông Lê Duẫn đưa ông Tố Hữu vào Nam ra lệnh phải thi hành chính sách “da báo,” tức là chỉ bảo vệ các lõm ở nông thôn và không được đánh lại. Ông Lê Đức Thọ sau đó cũng đưa ra những chỉ thị còn gắt gao hơn. Trong bài viết đăng trên Tạp chí LSQS (số tháng 3 năm 1988) ông Lê Đức Thọ cho biết là lúc đó có một số vấn đề bắt buộc “chúng ta” phải dè dặt, trong đó có việc cả Liên Xô và Trung Quốc đã cắt hết viện trợ quân sự. Do đó, một số cán bộ vào Nam (ông không nói đích danh ai) để giải thích chính sách cũng đã quá nhấn mạnh việc phải có chiến lược ôn hoà để xây dựng đất nước. Nhưng sau một thời gian chịu đựng ông Kiệt đã bất chấp chỉ thị của Trung Ương và ra lệnh cho ông Lê Đức Anh đánh lại. Ông nói: “Chúng nó tràn ngập lãnh thổ thì mình cũng tràn ngập lãnh thổ.” Với cơ chế lúc đó mà ông Kiệt đã đi ngược với chỉ thị của TƯ để thi hành trách nhiệm của mình đối với địa phương thì khó có thể nói là ông không can đảm. Việc táo bạo nầy đã dẫn đến sự sụp đổ của chính quyền Sài gòn.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét
Cảm ơn bạn rất nhiều ạ