1-Trạng
nguyên đầu tiên – Nguyễn Quán Quang
Có rất nhiều
những ghi chép khác nhau về vị Trạng Nguyên đầu tiên của nước Việt: ví như Lê
Văn Thịnh được gọi là Khai khoa Đại Việt khi nhà Lý – Năm Ất Mão – 1075 niên hiệu
Thí Ninh thứ 4 đời Vua Lý Nhân Tông – mở khoa thi nho học Tam trường đầu tiên
trong lịch sử của nền học vấn Đại Việt.
Tuy nhiên,
kì thi đó chưa lấy đậu Trạng Nguyên mà chỉ gọi là Nhất giáp. Vì thế, trong danh
sách 47 vị Trạng Nguyên treo ở Văn Miếu Quốc Tử Giám (Hà Nội) đã ghi danh Nguyễn
Quán Quang là vị Trạng Nguyên đầu tiên vì ông đỗ đầu khoa thi “Tiến sĩ” năm
1246.
Nguyễn Quán
Quang là người xã Tam Sơn, huyện Đông Ngàn, Kinh Bắc, nay là xã Tam Sơn, Thị xã
Từ Sơn, tỉnh Bắc Ninh. Sinh ra trong một gia đình nghèo không có tiền theo học
nên lúc bé thường lân la ngoài cửa lớp nghe thầy dạy bọn học trò trong làng học
sách Tam tự kinh rồi dùng gạch non viết lên nền gạch. Vì thế mà dân gian gọi
ông là “Thần đồng” học lỏm.
2- Trạng
nguyên trẻ nhất trong lịch sử khoa bảng Việt Nam – Nguyễn Hiền
Năm Đinh
Mùi (1247), chính thức thấy sách Đại Việt sử ký toàn thư có chép: “ Ban cho
Nguyễn Hiền (12 tuổi) đỗ Trạng Nguyên, Lê Văn Hưu (17 tuổi) đỗ Bảng nhãn, Đặng
Ma La (14 tuổi) đỗ Thám hoa” và Trạng nguyên của kỳ thi Tam khôi đầu tiên này
là Nguyễn Hiền. Nhưng cũng vì trước đó 1 năm đã có Nguyễn Quán Quang đỗ khoa
thi “ Tiến sĩ” nên được coi là vị Trạng nguyên đầu tiên trong lịch sử. Do đó,
Nguyễn Hiền là vị Trạng nguyên trẻ nhất trong lịch sử khoa bảng Việt Nam – năm
đó ông mới 12 tuổi.
3- Lưỡng quốc
Trạng nguyên – Mạc Đĩnh Chi
Mạc Đĩnh
Chi – người làng Lũng Động, huyện Chí Linh, tỉnh Hải Dương ngày nay. Nhà nghèo,
cha mất sớm, ông sống bằng nghề kiếm củi nuôi thân. Vốn là người có tư chất
thông minh, linh lợi, ông sớm nhận ra rằng chỉ có con đường học tập thành tài mới
thoát khỏi cảnh nghèo khó đó. Chính vì thế mà ông ra sức học tập. Đến năm Giáp
Thìn 1304, ông đỗ Trạng Nguyên.
Nhưng chỉ
vì tướng mạo xấu xí mà vua không muốn cho ông đỗ đầu. Ông đã làm bài phú bằng
chữ Hán để nói rõ nỗi niềm của người có chí khí “ Ngọc tỉnh liên phú” (Sen
trong giếng ngọc). Vua mến phục người tài cho vào bệ kiến giúp vua làm rạng
ranh đất nước. Ông giữ chức từ Hàn lâm học sĩ đến chức Thượng thư và sau làm Tể
tướng.
4- Trạng Lường
– Lương Thế Vinh
Lương Thế
Vinh có tên tự là Cảnh Nghị, tên hiệu là Thụy Hiên, sinh ra trong một gia đình
nông dân có học ở làng Cao Hương, huyện Thiên Bản, nay là huyện Vụ Bản, tỉnh
Nam Định. Từ nhỏ, ông đã nổi tiếng là thần đồng, vốn đã thông minh lại lắm tài.
Lớn lên, ông càng học giỏi trong khi vẫn thả diều, đá bóng, câu cá, bẫy chim.
Còn các bạn thì ngày đêm dùi mài kinh sử quên ăn quên ngủ. Bởi lẽ, ông có
phương pháp học và học đến đâu nhớ được ngay đến đó. Chưa đầy hai mươi tuổi,
tài học của ông đã nổi tiếng khắp vùng Sơn Nam. Năm 23 tuổi, ông đỗ Trạng
Nguyên khoa Quý Mùi (1463), đời vua Lê Thánh Tông.
5-Nữ Trạng
nguyên duy nhất Việt Nam – Nguyễn Thị Duệ
Giả nam đi
thi và đỗ Trạng nguyên – Nguyễn Thị Duệ đã là người phụ nữ duy nhất trong lịch
sử khoa bảng thời kì phong kiến Việt Nam.
Nguyễn Thị
Duệ tên thật là Nguyễn Thị Ngọc Toàn sinh năm 1574 trong một gia đình nhà nho
nghèo ở huyện Chí Linh, tỉnh Hải Dương. Từ nhỏ, bà đã nổi tiếng xinh đẹp, tài
hoa, giỏi văn chương, ca hát, nhiều người mến mộ tài sắc. Nhưng giáo dục Việt
Nam thời đó chưa tạo điều kiện cho phụ nữ đi thi nên Bà đành giả trai để đi thi
và đỗ Trạng nguyên đời nhà Mạc.
Vua Mạc
Kính Cung cũng bất ngờ khi biết tân khoa Trạng nguyên lại là nữ. Dù rất mến người
tài, không trách tội nhưng bà cũng không được mang danh Trạng nguyên để theo
đúng phép tắc thời bấy giờ. Nhưng bà lại được vua cho phép ở lại trong triều phụ
trách việc dạy học cho các phi tần. Sau, vua Mạc Kính Cung lập bà làm phi, ban
hiệu Tinh Phi hay Bà chúa Sao.
6-Trạng
nguyên với những lời sấm truyền ứng nghiệm – Nguyễn Bỉnh Khiêm
Nguyễn Bỉnh
Khiêm (1491–1585), tên huý là Nguyễn Văn Đạt, tên tự là Hanh Phủ, hiệu là Bạch
Vân cư sĩ, được các môn sinh tôn là Tuyết Giang phu tử, là một trong những nhân
vật có ảnh hưởng nhất của lịch sử cũng như văn hóa Việt Nam trong thế kỷ 16.
Ông được biết đến nhiều vì tư cách đạo đức, tài thơ văn của một nhà giáo có tiếng
thời kỳ Nam-Bắc triều (Lê-Mạc phân tranh) cũng như tài tiên tri các tiến triển
của lịch sử Việt Nam.
Sau khi đậu
Trạng nguyên khoa thi Ất Mùi (1535) và làm quan dưới triều Mạc, ông được phong
tước Trình Tuyền Hầu rồi thăng tới Trình Quốc Công mà dân gian quen gọi ông là
Trạng Trình. Đạo Cao Đài sau này đã phong thánh cho ông và suy tôn ông là Thanh
Sơn Đạo sĩ hay Thanh Sơn chân nhân.
Người đời
coi ông là nhà tiên tri số một trong lịch sử Việt Nam đồng thời lưu truyền nhiều
câu sấm ký được cho là bắt nguồn từ ông và gọi chung là Sấm Trạng Trình. Nguyễn
Bỉnh Khiêm cũng được coi là người đầu tiên trong lịch sử nhắc đến hai chữ Việt
Nam một cách có ý thức nhất thông qua các văn tự của ông còn lưu lại đến ngày
nay.
7-Người Việt
đỗ Trạng Nguyên đất Trung Hoa – Khương Công Phụ
Theo “Đại
Việt sử ký toàn thư”, Khương Công Phụ sinh năm 731 và mất năm 805, tự là Đức
Văn, người làng Sơn Ổi, xã Cổ Hiển (nay là làng Tường Vân, xã Định Thành, huyện
Yên Định, tỉnh Thanh Hóa). Ngay từ khi còn nhỏ, ông đã nổi tiếng thông minh, học
hành chẳng bao lâu đã thuộc làu kinh sách.
Dưới thời
nhà Đường, mỗi năm đất An Nam được chọn 8 người sang thi tiến sỹ và Khương Công
Phụ và Khương Công Phục là 2 trong 8 người được chọn dự thi khoa tiến sỹ ở Trường
An vào năm 758.
Tại kỳ thi
đình ở Trường An- kinh đô nhà Đường, với tài năng xuất chúng của mình, Khương
Công Phụ đã vượt qua nhiều sỹ tử và đỗ đầu kỳ thi ấy.
8-Trạng
nguyên- Nguyễn Trực
Nguyễn Trực
(1417 – 1473). Năm Thiệu Bình thứ nhất (1434), ở tuổi 17, Nguyễn Trực dự kỳ thi
Hương và đỗ đầu (Giải nguyên). Năm Nhâm Tuất niên hiệu Đại Bảo thứ ba (1442),
25 tuổi, dự thi Đình, đỗ Đệ nhất giáp tiến sĩ cập đệ đệ nhất danh (Trạng
nguyên). Ông được nhà vua ban sắc “Quốc Tử Giám Thi thư” và thưởng Á Liệt
Khanh, đứng đầu trong 33 vị Tiến sĩ cùng khoa.
Sau ông được
vua cử làm Chánh sứ sang nhà Minh, gặp kỳ thi Đình, Trạng nguyên Nguyễn Trực
cùng với Phó sứ là Trịnh Thiết Trường muốn cho nhà Minh biết đến tài học của
dân ta, nên xin dự thi được vua Minh chấp nhận cho phép dự thi, khi vào thi
cũng phải chấp hành nội quy trường thi như các thí sinh khác, khi chấm thi
xong, khớp phách kết quả: Nguyễn Trực đậu Trạng nguyên, Trịnh Thiết Trường đậu
Bảng nhãn, vua nhà Minh phải khen ngợi: “Đất nào cũng có nhân tài” và phong cho
Nguyễn Trực là “Lưỡng quốc Trạng nguyên”.
9-Trạng lợn
– Nguyễn Nghiêu Tư
Nguyễn
Nghiêu Tư đỗ trạng nguyên khoa thi Mậu Thìn niên hiệu Thái Hòa 6 (1448), đời
vua Lê Nhân Tông. Bằng tài năng của mình, ông khiến nhà Minh nể phục khi đi sứ.
Theo sử liệu và tư liệu của thôn Hiền Lương, huyện Quế Võ, tỉnh Bắc Ninh, trạng
nguyên Nguyễn Nghiêu Tư có tên húy là Nguyễn Trư, hiệu là Tùng Khê, người thôn
Minh Lương, nay là thôn Hiền Lương, xã Phù Lương, huyện Quế Võ.
Vì sinh năm
Hợi và vốn xuất thân trong gia đình có cha làm nghề mổ lợn ở Bắc Ninh, lúc nhỏ
đi ở nhờ, làm nghề chăn lợn cho người khác, lại có tên là Trư (lợn) nên dân
gian quen gọi ông là Trạng Lợn.
Ngày ấy, ở
Trung Quốc hạn hán kéo dài, nhân có Trạng Lợn sang thăm, vua Minh mời Trạng cầu
đảo để thử tài. Trạng Lợn nhận lời, yêu cầu dựng đàn uy nghiêm để ông cầu đảo.
Mục đích là để kéo dài thời gian. Khi thấy cỏ gà lang, Trạng bèn lên đàn làm lễ,
ông khấn theo cách nói lái: Hường binh, hòa binh, tam tinh, kẹo tinh, bát tinh,
linh tinh tinh… Vua Minh nghe thấy khiếp đảm, bái phục Trạng Lợn uyên thâm, tỏ
tường thiên văn, thuộc hết ngôi thứ các vị tinh tú trên trời. Khóa lễ vừa xong,
lập tức mưa như trút nước, khiến vua Minh đã phục lại càng phục hơn.
10-Trạng
nguyên cuối cùng – Trịnh Huệ
Theo “Trịnh
Vương ngọc phả” thì Trịnh Huệ thuở nhỏ rất thông minh và chịu khó học hành, liếc
mắt qua một lượt thuộc ngay mười hàng chữ, chục năm sau có thể đọc lại vanh
vách. Năm 1723 Trịnh Huệ thi Hương và đỗ ngay Hương cống (tức đỗ đầu), được
chúa Trịnh Giang mời vào cung Tân Nhân giao cho chức phó Tri Hình Phiên. Tại
khoa thi năm Bính Thìn (1736), ông đỗ đầu kỳ thi Hội, vào đến thi Đình ông cũng
lại đỗ đầu, trở thành Trạng nguyên.
“Hiền tài
là nguyên khí quốc gia” – điều này đã được minh chứng như một định đề bất biến trong lịch sử Việt Nam. Dân gian vẫn hay quan
niệm rằng còn người là còn tất cả. Vì lẽ vậy thiết nghĩ từ góc độ gia đình xã hội
hay quốc gia nên lấy việc dạy người làm trọng. Có vậy đời sống mới dài lâu, tiếng
tăm mới lưu danh thiên cổ. Tất nhiên trong giáo dục đạo đức vẫn luôn luôn đứng
đầu.
Vũ Nam tổng
hợp.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét
Cảm ơn bạn rất nhiều ạ