LỊCH
SỬ HỌ ĐỖ (ĐẬU) VIỆT NAM
Thơ:
Đỗ Tấn Thích
Con
người có tổ có tông
Như
cây có cội như sông có nguồn
Cỏ
cây hoa lá chim muông
Có
tông có tổ có nguồn sinh ra
Nước
ta từ thuở hồng hoang
Đến
thời Âu Lạc, Hồng Bàng và nay
Cổ
Lôi Ngọc Phả Truyền Thư
Bách
Việt Tộc Phả có từ xa xưa
Ngàn
năm sử sách lưu truyền
Giá
trị lịch sử tổ tiên cội nguồn
Cụ
ông tên là Đỗ Thương
Kết
duyên với cụ Vụ Tiên cùng làng
Hai
cụ sinh chín người con
Tám
trai, một gái, cụ Ngoan đứng đầu
Con
cả Đỗ Thị Đoan Trang
Tôn
danh Quý Thị, sinh vào tháng tư
Chồng
cụ là Thái Khương Công
Vua
Nguyễn Minh Khiết hiệu là Đế Minh
Sinh
thời thoả chí bình sinh
Tám
trai thỏa chí mang vinh nước nhà
Đỗ
Xương, Đỗ Kỷ, Đỗ Cương
Đỗ
Tiêu, Đỗ Dũng, Đỗ Chương cùng dòng
Đỗ
Bích cùng với Đỗ Trọng
Được
phong Bát Bộ Kim Cương đời đời
Cụ
Quý Thị hóa về trời
Vào
rằm tháng bảy đúng ngày Vu Lan
Phía
Nam dọc sông Trường Giang
Địa giới
thuộc nước Văn Lang, Vua Hùng
Lộc
Tục con cụ Trang, Minh
Con
rễ tù trưởng Động Đình, phía Nam
Lộc
Tục dẹp loạn sứ quân
Bảy
hai bộ lạc phải tuân lệnh Ngài
Hiệu:
Kinh Dương Vương, lên ngai
Tên
nước Xích Quỷ sánh vai các vùng
Mộ cụ
ở huyện Thuận Thành
Tại
làng Á Lữ, Bắc Ninh tỉnh nhà
Ngài
có con trai thứ ba
Tên
là Sùng Lãm hiệu là Long Quân
Có
truyền thuyết xứng anh hùng
Bao
dung, che chở giúp dân trừ tà
Đó là
lịch sử họ ta
Chúng
ta nên biết ông bà, tổ tiên
Con
cháu dù khắp trăm miền
Cùng
chung máu đỏ tổ tiên ngàn đời
Đỗ
(Đậu) có mặt muôn nơi
Từ
Nam chí Bắc đời đời biết ơn
Tổ
tiên gầy dựng giang sơn
Khai
sinh lập địa, ngàn đời ấm no.
Xem thêm: Nước ta, từ thuở hồng hoang - thời đại đồ đá cũ đến
nay đã trên ba vạn năm. Thời tiền sử, từ khi có đế, có vua cách nay cũng 7000
năm, nhà nước sơ khai của Đế Thiên, Đế Cả, Đế Viên… con cháu Phục Hy (giỗ ngày
mồng 1 tháng 4 âm lịch) đã có công khai sáng đất nước ta từ buổi đầu đóng đô ở
phía tây dãy Ba Vì.
Theo ngọc phả, thánh tích và chứng cứ còn lưu giữ ở một số nơi
đã khẳng định: Họ Đỗ - một cộng đồng người Việt đã sinh tụ, phát tích trên vùng
đất này ít nhất cách đây trên 5000 năm, trước thuở lập nước đến nay mang quốc
hiệu Văn Lang, trước cả thời kỳ xác lập vua Hùng đời thứ nhất.
Thật vậy, theo “Cổ Lôi Ngọc Phả Truyền Thư” và “và Bách Việt Tộc
Phả, cách đây gần 5000 năm, cụ Đỗ Thương kết duyên cùng cụ bà Vụ Tiên. Hai cụ
sinh hạ được chín người con: một gái, tám trai. Người con cả là Đỗ Thị Đoan
Trang, tên húy là Ngoan, được tôn danh là Đỗ Quý Thị (Tức Quý bà họ Đỗ); Tám
người con trai là: Đỗ Xương, Đỗ Tiêu, Đỗ Kỷ, Đỗ Cương, Đỗ Chương, Đỗ Dũng, Đỗ
Bích và Đỗ Trọng.
Cụ Đỗ Quý Thị sinh ngày 08 tháng 4, mất ngày 15 tháng 7 âm lịch,
miếu thờ cụ ở Ba La, Hà Đông. Chồng cụ là Thái Khương Công Nguyễn Minh Khiết,
hiệu là Đế Minh. Cụ được phối thờ cùng Đế Minh Nguyễn Minh Khiết tại nhà thờ
Bách Việt Thiệu Tổ - nhà thờ hàng tổ nối tiếp của trăm họ người Việt ở thôn Vân
Nội, phường Phú Lương, quận Hà Đông ngày nay. Cụ còn được thờ tại chùa Mãn
Phúc, Phú Yên, Phú Xuyên, Hà Nội. Hai cụ sinh ra Lộc Tục. Khi Lộc Tục trưởng
thành, lấy con gái Thần Long, là tù trưởng Hồ Động Định, phía nam sông Dương Tử
(thời đó, các tộc Việt đều ở phía nam 5 dãy núi Ngũ Lĩnh, nam sông Dương Tử -
nay là sông Trường Giang.
Sau khi được vua cha truyền ngôi, Lộc Tục tụ quân dẹp loạn, thu
phục được 72 bộ lạc, lên ngôi lấy hiệu là Kinh Dương Vương, đặt tên nước là
Xích Quỷ (“Xích Quỷ” là tên ngôi sao sáng đỏ). Kinh Dương Vương mất ngày 18
tháng Giêng năm 2879 (trước Công Nguyên).
Mộ Thủy tổ Việt Nam Kinh Dương Vương ở làng Á Lữ, huyện Thuận
Thành, tỉnh Bắc Ninh. Khu di tích đền thờ Kinh Dương Vương cũng ở gần đấy. Ngày
18 tháng Giêng là ngày giỗ Kinh Dương Vương, nhà nước về đây tổ chức đã trở
thành lễ hội truyền thống hàng năm.
Sùng Lãm là con trai thứ ba của Kinh Dương Vương, hiệu là Lạc
Long Quân, lấy con gái Đế Lai là Âu Cơ, thay cha lập nên nhà nước Văn Lang, mở
ra triều đại vua Hùng đầu tiên.
Mộ quốc tổ Lạc Long Quân ở thị trấn Kim Bài, huyện Thanh Oai, Hà
Nội (Đền thờ các vua Hùng ở đền Hùng, tỉnh Phú Thọ, giỗ chung là ngày 10 tháng
3 âm lịch. Cụ Đỗ Quý Thị được phong Phật hiệu là “Hương Vân Cái Bồ Tát”. Dân
Việt tôn phong là “Đệ Nhất Tiên Thiên Thánh Mẫu’’ (Mẫu mẹ đầu tiên của Đạo Mẫu
Việt Nam) vì bà là mẹ của Thủy tổ Việt Nam – Kinh Dương Vương, là bà nội của
quốc tổ Lạc Long Quân – vua Hùng.
Còn tám người con trai (em của cụ Đỗ Quý Thị, là cậu của Kinh
Dương Vương, lúc nhỏ đã được cụ Đỗ Quý Thị đưa vào động Tiên Phi, nay là Động
Tiên, Lạc Thủy, Hòa Bình để tu luyện. Lớn lên, họ đã có công giúp Kinh Dương
Vương dựng nước nên được phong là Bát Bộ Kim Cương. Đó là:
1. Đỗ Xương, hiệu Thanh Trừ Tai Kim Cương (Cơ khí giới – trừ tai
họa);
2. Đỗ Tiêu, hiệu là Tịch Độc Thận Kim Cương;
3. Đỗ Kỷ, hiệu là Hoàn Tuỳ Cầu Kim Cương;
4. Đỗ Cương, hiệu là Bạch Tịnh Thuỷ Kim Cương;
5. Đỗ Chương, hiệu là Xích Thanh Hoả Kim Cương;
6. Đỗ Dũng, hiệu là Định Trừ Tai Kim Cương;
7. Đỗ Bích, hiệu là Tử Hiền Thần Kim Cương;
8. Đỗ Trọng, hiệu là Đại Thần Lục Kim Cương.”
Mộ Bát Bộ Kim Cương (và thân thích) được chôn cất ở Gò Thiềm Thừ
(Gò Con Cóc), tại Ba La, Hà Đông, thành phố Hà Nội. Nơi đây được lập bia Thần
Cóc để thờ vì Cóc là cậu Vua – Cậu ông trời. Hai bia đá thần Cóc bốn mặt khắc
chữ Nho. Được dịch là:
Lối cũ dấu thơm,
Nghìn xưa còn đó.
Cây to báu vật,
Muôn thuở còn đây.
Họ Đỗ (Đậu) đã đi vào lịch sử dân tộc. Thời nào cũng có hào
kiệt: Đỗ Phụng Chân, Đỗ Quang, Đỗ Công Điền, Đỗ Ả Lã, Đỗ Nương Chi, Đỗ Mẫn
(thời Hùng Vương) ; Thái sư – võ sư Đỗ Năng Tế - thầy dạy Hai Bà Trưng; Đỗ Thị
Hảo, Đỗ Thị Dung, Đỗ Xuân Quang, Đỗ Dương đã cầm quân dưới cờ khởi nghĩa Hai
Bà.
Sau Công Nguyên, họ Đỗ (Đậu) đã bao trùm phần đông ở tả ngạn và
hữu ngạn sông Hồng. Càng về sau, nhân danh họ Đỗ (Đậu) được ghi tên trong sử
sách ngày càng nhiều. Tiêu biểu là Đỗ Cảnh Thạc – chủ tướng vương triều Ngô (trận
Bạch Đằng năm 938) đã kết thúc một nghìn năm đô hộ của phương Bắc. Sứ quân Đỗ
Cảnh Thạc (12 sứ quân) trung thành phục dựng triều Ngô; Nhà sư Đỗ Pháp là nhà
văn đầu tiên của Việt Nam (thời Đinh); Đỗ Thiện viết sử ký đời Lý; Văn tướng Đỗ
Khắc Chung – người duy nhất trong các tướng triều Trần dám dũng mãnh đi thương
thuyết với Ô Mã Nhi tại Đông Bộ Đầu khi thế giặc mạnh như chẻ tre và mưu trí,
dũng cảm cứu công chúa Huyền Trân khỏi giàn thiêu khi Chế Mân – vua Cham Pa qua
đời; Võ tướng Đỗ Hành bắt sống Ô Mã Nhi và tướng Tích Lệ Cơ trên sông Bạch
Đằng, tế sống các vua Trần để trả thù quân Nguyên tàn phá mộ tổ của các vua
Trần; Đại tướng Đỗ Chính Minh phò Trần Duệ Tông đánh Chiêm Thành; Tiến sĩ Đỗ
Nhuận – phó Nguyên súy Tao Đàn thời Lê; Đỗ Lý Khiêm là Trạng nguyên (1499) nhà
Lê; Đỗ Tống – Trạng nguyên (1529) nhà Mạc; Đậu Bá Luận (Công đạo) vẽ bản đồ
Hoàng Sa, Trường Sa (tứ chi lộ đồ) thế kỷ thứ XVII; Đỗ Phát – tiến sĩ (1834) tế
tửu Quốc Tử Giám (Hiệu trưởng) - Dinh điền chánh sứ khai phá hai tổng là Quế
Hải và Tân Khai tại Hải Hậu, Nam Định ngày nay; Đỗ Thừa Lương, Đỗ Thừa Tự mở
đất, khởi nghĩa cuối thế kỷ XIX ở Cà Mau, Kiên Giang; Đỗ Thị Bính – người đẹp
trong tứ mĩ Hà thành xa; Giáo sư- Tiến sĩ Đỗ Tất Lợi – nhà dược học; Đỗ Nhuận –
nhạc sĩ Việt Nam; Đậu Ngọc Xuân, Đỗ Quốc Sam, Đỗ Nguyên Phương, Đỗ Chính, Đỗ
Quang Trung; Đỗ Trung Tá – Bộ trưởng; Giáo sư – Tiến sĩ Đỗ Đình Chiểu – Viện sĩ
hạt nhân nguyên tử (Pháp); Đỗ Văn Xuyến, nhà giáo- nhà văn giải mã được chữ
Việt cổ thời tiền sử của nền văn minh Văn Lang (các vua Hùng), là bộ chữ Khoa
Đẩu đã được tổ tiên ta sử dụng khoảng 2000 năm (đến cuộc khởi nghĩa Hai Bà
Trưng thất bại, bị chữ Hán thay thế); Thượng tướng Đỗ Văn Cầm (Hoàng Cầm);
Thượng tướng Đỗ Bá Tỵ - thứ trưởng Bộ Quốc phòng. Tổng tham mưu trưởng Quân đội
nhân dân Việt Nam, nay là Phó Chủ tích Quốc hội
Ngày nay, họ Đỗ (Đậu) đã có trên 8 triệu người, chiếm gần 1/10
dân số Việt Nam. Xưa và nay đã có hàng nghìn đại khoa, tiến sĩ, nhân vật lịch
sử, tướng lĩnh đất Việt mà sách “Họ Đỗ (Đậu) Việt Nam đã ghi danh lưu truyền
cho hậu thế./.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét
Cảm ơn bạn rất nhiều ạ