2. GƯƠNG HIẾU XƯA, NAY
Xưa vua Nghiêu trọng hiếu nên truyền ngôi cho ông Thuấn, vua
Thuấn vì hiếu mà được truyền ngôi. Không kể đến 24 gương hiếu thảo mà Lý Văn
Phức đã kể trong Nhị thập tứ hiếu được truyền tụng lâu nay. Nhà xuất bản Trẻ đã
ấn hành tập Hai mươi gương hiếu Việt Nam (TP.HCM, 1994), kể lại gương vua Trần
Anh Tông chỉ một lần lễ tết uống rượu say, không ra kịp chầu mà sau đó phải
dưới mưa , quỳ dâng biểu tạ tôi. Vua Thiệu Trị tự tay đẩy xe đưa bà nội dạo
chơi. Hưng Đạo Vương Trần Quốc Tuấn lấy trung làm hiếu không vì việc riêng mà
oán vua. Nguyễn Trãi vì hiếu, theo cha đến ải Nam Quan, nghe lời cha khuyên đã
dâng Bình Ngô sách, giúp Lê Lợi trừ giặc Minh, báo thù cha, đền ơn nước. Chính
ông đã soạn Gia huấn ca (1) để đem lòng trung hiếu ra dạy con cái trong nhà,
nay còn được coi là khuôn vàng thước ngọc. Tú tài Nguyễn Văn Danh trừ hổ báo
thù cha đã bị hổ ăn thịt. Nhận tội thay mẹ chồng, nàng dâu người Hương Sơn
(Thanh Hoá) đã khiến đàn voi dữ không nỡ phanh thây. Nguyễn Cư Sĩ xin đi đày
thay cha, dù tuổi còn nhỏ khiến quan trên cảm động mà tha tội. Bùi Huy Tân,
ngoài 70, cáo quan về hầu hạ mẹ tuổi 90. Nguyễn Đình Tế dù bị cha mê vợ lẽ, bỏ
bê, không hiềm khích, khiến mẹ kế sau đó phải thay đổi tính tình ...
Bậc vua chúa tự mình noi gương hiếu và đặt điều răn dạy dân như
điều thứ 13 trong 24 điều răn của vua Lê Thánh Tông đã viết: “Quân và dân phải
hiếu với cha mẹ, thảo với anh em...”. Vua Tự Đức rất kính sợ mẹ là bà Từ Dũ.
Một lần, Tự Đức đi săn, mưa to, nước xiết, ngựa không đi được. Trời tối, ngày
mai là ngày giỗ vua cha, nếu về không kịp sẽ bị quở mắng. Thế là vua chạy bộ về
cung, quỳ trước mặt mẹ tạ tội. Bà Từ Dũ xoay mặt đi, Tự Đức phải đến 3 lần, quỳ
van xin mới được tha tội...
Bậc thức giả thì trọng hiếu, tận trung. Ở Nam Bộ-Gia Định có 3
nhà nho trí thức đề cao trung hiếu, không ra làm quan, ở nhà dạy học. Đó là Võ
Trường Toản với: “Cho hay dời đổi ấy lẽ thường. Hiếu trung vốn dĩ phận trai
mà”, là Nguyễn Đình Chiểu với “Trai thời trung hiếu làm đầu...”, với Hồ Huấn
Nghiệp với “Toàn bằng trung hiếu tác nam nhi...”. Võ Trường Toản không ra làm
quan dù Nguyễn Anh đích thân mời và gần 80 năm, sau khi ông chết, các sĩ phu
yêu nước còn dời mộ ông từ Gia Định về Vĩnh Long để cho hài cốt bậc cao hiền
không nằm trong vùng nhượng địa, bị giặc Pháp làm ô uế. Nguyễn Đình Chiểu tuy
mù nhưng giữ đạo nhà, không hợp tác với giặc. Và cái chết của Hồ Huấn Nghiệp là
tấm gương yêu nước nửa sau thế kỷ 19 ở Nam Kỳ. Với các bậc thức giả thì: Đã
sinh trong cõi người ta/ Có vào hiếu tử mới ra trung thần.
Dân gian ta đã ghi nhớ công lao của cha mẹ, khắc sâu chữ hiếu
trong kho tàng tục ngữ, ca dao: Công cha như núi Thái Sơn/ Nghĩa mẹ như nước
trong nguồn chảy ra/ Núi cao biển rộng mênh mông/ Cù lao chín chữ ghi lòng con
ơi!
Ngày nay, nhắc đến 9 chữ cù lao, lớp trẻ thật khó hiểu. vậy,
chín chữ cù lao ấy là: sinh (đẻ), cúc (đùm bọc), phủ (vỗ về), súc (nuôi nấng),
trưởng (bồi bổ cho khôn lớn), dục (dạy bảo), cố (theo dõi, chăm sóc), phục
(khuyên răn), phúc (giữ gìn, che chở). Điều ấy đã nói lên công lao khó nhọc của
cha mẹ trong việc nuôi dạy con cái nên người. Lên non mới biết non cao/ Nuôi
con mới biết công lao mẹ hiền. Thường sau này, khi đã làm cha, làm mẹ, nuôi con
vất vả, khó nhọc thế nào mới hiểu tháu hết lòng cha mẹ, mới thấm thía hết 9 chữ
cù lao đó!
Sự hình thành nhân cách của người con, một phần lớn do công dạy
dỗ của cha mẹ. Chuyện kể rằng, ông Trần Bích San (1840-1878), người làng Vị
Xuyên, huyện Mỹ Lộc, Nam Hà, đậu Tam Nguyên, được bổ làm quan ở Huế, rồi tri
phủ An Nhơn (Bình Định) nơi nổi tiếng về dệt lụa. Mẹ ông sống ở quê nhà. Một lần,
lính lệ từ An Nhơn ra đưa bà cuộn lụa đẹp nói là của quan phủ tặng bà. Bà lo
cơm nước và chỗ nghỉ cho lính. Trước khi người lính ấy về An Nhơn, bà nhờ hoàn
trả cuộn lụa cho quan phủ. Nhận lại cuộn lụa, lại thấy cả cây roi nhét phía
trong, quan phủ biết ý mẹ, lập bàn thờ, hướng về quê mẹ lạy hai lạy và nằm úp
sấp xuống nền nhà, trên lưng để cây roi suốt từ sáng đến tối. Trần Bích San là
người có chí hướng, muốn đem tài năng ra giúp dân, giúp nước.Ông đã từng làm
điều trần vach rõ tội ác của lũ tham quan ô lại lúc bấy giờ. Ông cũng đề xuất
nhiều kiến nghị cải tổ giáo dục, tuyển chọn nhân tài, phòng thủ đất nước. Cuộc
đời Trần Bích San thanh liêm, yêu nước, thương dân như thế cũng là nhờ có bà mẹ
nhân từ mà nghiêm khắc như thế.
Một trong những tôn giáo lớn ở Việt Nam là Phật giáo, cũng rất
coi trọng chữ Hiếu. Lễ Vu Lan được tiến hành vào rằm tháng 7 được người dân
Việt Nam kết hợp với tín ngưỡng bản địa cúng tổ tiên và xá tội vong nhân, mở
đầu cho mùa báo ân, báo hiếu, với sư tăng là tự tứ, và phật tử là tứ ân (ân cha
mẹ, ân thầy bạn, ân nhà nước, ân chúng sinh). Trong cái ân đầu tiên của tứ ân
mà phật tử phải thực hiện là: làm tròn chữ hiếu. Hiếu nghĩa trở thành một
truyền thống văn hoá gia đình đã có từ ngàn xưa của dân Việt.
Sự tích về tên chùa Từ Hiếu (Huế) là một câu chuyện hiếu nghĩa
cảm động. Tương truyền có một ngôi chùa nhỏ do nhà sư Thích Nhất Định lập nên
tên là An Dưỡng am, cách kinh thành Huế 5km, về hướng Tây Nam. Sư có đem theo
mẹ già. Một lần mẹ đau nặng, sức yếu, thầy thuốc khuyên vừa uống thuốc, vừa cho
bệnh nhân ăn thịt cá để mau hồi sức. Thương mẹ, hàng ngày người xuống chợ Bến
Ngự mua cá buộc vào đầu gậy đem về chùa, đành nhận mọi tai tiếng ngoài đời để
cứu dưỡng mẹ già. Vua Tự Đức biết chuyện, cảm phục tấm lòng hiếu thảo của hoà
thượng, bèn ban cho chùa tấm biển đề: “Sắc tứ Từ Hiếu tự” (tức chùa Từ Hiếu).
---
(1) Nguyễn Trãi (2017), Gia huấn ca, Ngọc Hồ- Nhất Tam (chú
giải), Nxb Hội Nhà văn.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét
Cảm ơn bạn rất nhiều ạ