Lê Quý Đôn được mệnh danh là thiên tài bậc nhất trong lịch sử Việt Nam. Bởi thế mà người đương thời có câu rằng: “Thiên hạ vô tri vấn Bảng Đôn”, tức là có điều gì không biết, hãy đến hỏi Lê Quý Đôn. Lê Quý Đôn, nguyên là Lê Danh Phương, sinh năm 1726 trong một gia đình khoa bảng tại làng Diên Hà, huyện Diên Hà, trấn Sơn Nam, nay thuộc xã Độc Lập, huyện Hưng Hà, tỉnh Thái Bình.
Ông là con cả của tiến sĩ Lê Phú Thứ
(sau đổi thành Lê Trọng Thứ) – người từng làm đến chức Hình bộ Thượng thư. Mẹ
ông là con gái một tiến sĩ từng trải qua nhiều chức quan.
Từ nhỏ, Lê
Quý Đôn nổi tiếng là thần đồng ham học, thông minh, có trí nhớ siêu đẳng. Người
đương thời khuyên nhau “Thiên hạ vô tri vấn Bảng Đôn”, tức là thiên hạ có điều
gì không biết thì cứ đến hỏi Lê Quý Đôn. Họ thường gọi ông là “túi khôn của thời
đại”, nhà bác học lớn của Việt Nam trong thời phong kiến.
Đỗ đầu ba kỳ
thi
Năm 1739,
Lê Quý Đôn theo cha lên học ở kinh đô Thăng Long. Đến năm 17 tuổi, dưới thời
vua Lê
Hiển Tông, ông dự thi Hương và đỗ đầu (Giải nguyên). Sách Những người
thầy trong sử Việt viết quyển thi của Lê Quý Đôn qua bốn kỳ đều được phê
“ưu”, các quan chấm thi hết lời khen ngợi. Hôm xướng danh, câu đầu tiên của người
lính phát ra từ chiếc loa dài nghêu, vang lên thật rành rọt “Cử nhân – giải
nguyên – Sơn Nam – Lê Quý Đôn – Thập bát tuế”.
Tuy đỗ đầu
thi Hương nhưng Lê Quý Đôn thi Hội mấy lần đều không đỗ. Ông ở nhà dạy học và
viết sách. Mãi đến năm 1752, khi bước vào tuổi 27, Lê Quý Đôn mới lại dự
thi Hội và lần này đỗ Hội nguyên. Vào thi Đình, ông đỗ luôn Bảng Nhãn. Đây là
danh hiệu dành cho người đứng thứ hai trong tam khôi, dưới Trạng nguyên, trên
Thám hoa. Tuy nhiên, kỳ thi này không lấy đỗ Trạng nguyên nên
ông lần thứ ba là người đỗ đầu.
Ngay sau
khi đỗ đạt, Lê Quý Đôn được bổ nhiệm làm quan và giữ nhiều chức vụ quan trọng
trong triều Lê Trịnh như Thị thư, Thị giảng ở Viện Hàn lâm, Toản tu quốc sử, Thừa
chỉ Viện Hàn lâm, Học sĩ ở Bí thư các, Tư nghiệp Quốc Tử Giám hay Bồi tụng.
Theo Khâm định Việt sử thông giám cương mục, đến năm 1783, ông được giữ đến
chức Thượng thư bộ Công.
Là mệnh
quan triều đình, Lê Quý Đôn được đi nhiều, thấy nhiều, nghe nhiều, nhờ vậy mà
chuyện gì ông cũng nắm rõ ngọn ngành. Ông từng được cử đi sang nhà Thanh rồi
đi gặp sứ thần Triều Tiên và khiến họ phải tôn trọng, khen ngợi.
“Túi khôn của
thời đại”
Lê Quý Đôn
nổi tiếng là tác giả của nhiều tác phẩm khảo cứu về lịch sử, địa chí, văn hóa
Việt Nam. Về lịch sử – địa lý, ông có tác phẩm Đại Việt thông sử (tên
gọi khác là Lê triều thông sử) với 30 quyển ghi chép về hơn 100 năm của
triều nhà Lê, bắt đầu từ Lê Thái Tổ đến Lê Cung Hoàng.
Một số tập
sách nổi tiếng khác của Lê Quý Đôn có thể kể đến như Phủ biên tạp lục (6 quyển) ghi chép về tình hình xã hội
Đàng Trong từ thế kỷ 18 trở về trước; Vân đài loại ngữ (9 quyển) – “bách
khoa thư” đồ sộ nhất thời phong kiến với nhiều tri thức về triết học, khoa học,
văn học sắp xếp theo thứ tự: vũ trụ luận, địa lý, điển lệ, chế độ, văn nghệ,
ngôn ngữ, văn tự, sản vật tự nhiên, xã hội…
Ngoài ra,
ông còn nhiều sách bàn giảng về kinh, truyện, sách khảo cứu về cổ thư, sách thơ
văn. Trong lời tựa sách Kiến văn tiểu lục (Chép vặt những điều
nghe thấy), Lê Quý Đôn tự nhận trong thời gian phụng mệnh làm việc công, bốn
phương rong ruổi, ông “đi tới đâu cũng để ý tìm tòi, làm việc gì mắt thấy tai
nghe đều dùng bút ghi chép, lại phụ thêm lời bình luận sơ qua, giao cho tiểu đồng
đựng vào túi sách”.
“Việc dùng
bút ghi chép, thêm lời bình luận sơ qua mà ông kể đó chỉ là cách nói
khiêm tốn của nhà nho chứ tiểu đồng nào, túi sách nào đựng được những gì ông viết
ra. Bởi đó là một kho sách đồ sộ, có tới 40 bộ, bao gồm hàng trăm quyển, trùm
lên các lĩnh vực triết học, luật học, sử học, địa lý học, nông học, xã hội học,
dân tộc học, thiên văn học, từ điển học…”, tác giả cuốn Những người thầy
trong sử Việt viết.
Người thầy
lỗi lạc phê phán lối học phục vụ thi cử
Không chỉ
là nhà
bác học, Lê Quý Đôn còn là người thầy xuất sắc trong các thầy giáo ở nước
ta hồi thế kỷ 18. Theo Những người thầy trong sử Việt, ông từng mở trường
dạy học, có nhiều học trò đỗ đạt. Thời gian làm các công việc liên quan tới
giáo dục trong triều, ông luôn là người thầy uy tín, tham gia giảng dạy, bình
văn cho các giám sinh. Ông tổ chức các kỳ thi Hội, thi Đình, lo việc đào tạo và
tuyển dụng nhân tài cho đất nước.
Khác với
nhiều bậc thầy đương thời, Lê Quý Đôn còn là người biên soạn sách giáo khoa và
nhà lý luận về giáo dục. Ông thấy được cái hạn chế của cách giáo dục tầm chương
trích cú, phục vụ thi cử với mục đích để ra làm quan, đào tạo ra những người
thiếu bản lĩnh.
Trong Kiến
văn tiểu lục, ông viết “Cái học ấy làm cho lời bàn luận sáng suốt bẵng đi, thói
cầu cạnh mỗi ngày một thịnh. Người có chức vị ít giữ được phong độ thanh liêm,
nhún nhường, trong triều đình không nghe thấy lời can gián. Gặp có việc thì rụt
rè, cẩu thả, thấy lúc nguy thì bán nước để toàn thân, dẫu người gọi là bậc danh
nho, cũng đều yên tâm nhận sủng vinh phi nghĩa”.
Cũng trong
tác phẩm này, ông chia sẻ đã nhận thấy cái vô bổ, phù phiếm của việc bỏ công ra
trau chuốt, gọt giũa từng câu, từng chữ những bài thơ, phú để ca tụng lẫn nhau.
Ở tác phẩm Vân đài loại ngữ, ông phê phán các nho sĩ đương thời, chỉ biết
nhồi nhét những kinh điển viển vông mà coi thường, thậm chí không biết gì đến
các môn học khác; đồng thời tha thiết đề xuất phải thay đổi “Giáo khoa phải dạy
cả lục nghệ, trong đó cả văn tự và vũ bị”.
Về phương
châm học tập, Lê Quý Đôn chủ trương khi học phải biết nắm lấy cái chính, có óc
suy luận, không nệ vào sách vở và học là để hành. Trong Dịch kinh phu thuyết,
ông viết “Sách không hết lời, lời không hết ý… Phải hiểu ngầm ý của thánh nhân ở
ngoài lời sách mới được”, “đọc sách một thước không bằng hành được một tấc”.
Với các bậc
cha mẹ, Lê Quý Đôn khuyên “Dạy con phải dạy cho có nghề nghiệp” (không nhất thiết
lấy thi cử làm con đường duy nhất để lập thân), “muốn con nên người phải dạy
cho chúng biết sợ hãi, biết hổ thẹn, biết khó nhọc”.
Trong bối cảnh
triều chính, đất nước rối ren, Lê Quý Đôn lâm bệnh nặng. Sau đó, ông xin về quê
mẹ ở huyện Duy Tiên, Hà Nam để chữa trị nhưng không qua khỏi. Ông mất vào giữa
năm 1784, thọ 58 tuổi.
Tác giả Văn
Tân viết trong cuốn Trí thức Việt Nam xưa và nay:”Lê Quý Đôn là nhà bác học
lớn nhất của nước Việt Nam thời phong kiến. Suốt đời ông đọc sách không biết mệt
mỏi và viết sách không mệt mỏi”. Ngày nay, tên của Lê Quý Đôn được đặt cho nhiều
đường phố, trường học từ đại học đến mầm non ở khắp tỉnh, thành.
Theo
Vnexpress
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét
Cảm ơn bạn rất nhiều ạ