Cây tre Việt
Nam không chỉ là biểu tượng sức sống bền vững của dân tộc mà còn là một loài
cây cứu người. Từ gốc đến ngọn, từ trong ra ngoài của nó có tới hơn 200 vị thuốc
chữa được rất nhiều bệnh tật, trong đó có nhiều bệnh nan y phi tre không cách
gì chữa khỏi. Nhân câu chuyện chánh trị liên quan đến cây tre, xin đăng lại loạt
bài tôi viết trên báo Thanh Niên từ 10 năm trước. Dưới góc độ truyền thông đại chúng,
tôi nghĩ đây là loạt bài cung cấp những tri thức tương đối đầy đủ về sự hữu dụng
của cây tre tính đến thời điểm này.
Kỳ 1 : CỨU
TÔ SÂM
Tôi sinh ra
sau một lũy tre. Mười năm đầu đời sống với tre. Ăn, ở, chơi bời, cái gì cũng gắn
với tre, bị đánh đòn cũng bằng roi tre. Tre thân thiết với cuộc sống người dân
nông thôn miền Trung chúng tôi như cơm ăn áo mặc, như cha mẹ như chị em như bè
bạn. Thân thiết nhưng không thấy quan trọng.
Lớn lên đi
học thấy tre tràn ngập trong văn chương. Người ta đã viết quá nhiều về cây tre,
từ cây tre của Thánh Gióng đến cây tre vót chông đánh giặc, sách vở thơ phú cổ
kim đều dành cho cây tre một vị trí trân trọng. Tre nuôi nấng chở che cho bá
tánh, tre là bạn của ẩn sĩ, tre cao khiết bên cạnh thánh hiền.
“Vị xuất thổ
thời tiên hữu tiết
Đáo lăng
vân xứ dã hư tâm”.
Một cao sĩ
nào đó thời xưa đã làm hai câu thơ (câu đối) quá hay như thế về cây tre: Chưa
nhú khỏi mặt đất đã có khí tiết (tiết: cũng có nghĩa là đốt tre), lên đến tận
mây mà lòng vẫn trống không (hư tâm: cũng có nghĩa là rỗng ruột). Tiết tháo của
Khổng tử, vô vi của Lão Trang, sự không chấp của Phật “đồng nguyên” trong một
cây tre.
Còn tre của
Nguyễn Bỉnh Khiêm:
“Tú hoa dã
trúc tam xuân hảo
Tinh nguyệt
minh song nhất thất hư”
(Xuân đán cảm
tác)
Ông Đinh
Gia Khánh dịch “Trúc hoang, hoa đẹp, ba xuân tốt/Cửa sáng, trăng trong, nhà trống
trơ”. Theo tôi dịch như vậy không lột được ẩn ý sâu xa của hai câu thơ. Đặt dấu
phẩy giữa “trúc hoang” và “hoa đẹp” làm hỏng câu thứ nhất, đặt dấu phẩy giữa “cửa
sáng” và “trăng trong” làm hỏng luôn câu thứ hai. “Tú hoa dã trúc” chỉ là một,
không phải là hai. Ở đây chỉ có tre thôi, Nguyễn Bỉnh Khiêm coi tre chính là
hoa. Nếu hoa bên cạnh tre ở đây thì chỉ là câu thơ tầm thường. Không phải Nguyễn
Bỉnh Khiêm tùy hứng coi tre là hoa, mà từ xa xưa cha ông ta đã gọi tre là “Quảng
lịch thảo” hay “Quảng lịch hoa”. Cũng như vậy, ở câu thứ hai: song cửa và trăng
không phải là hai thứ, mà “tinh nguyệt minh song” chỉ là cái song cửa, cái song
cửa đọng ánh trăng tinh khiết mà thôi. Trạng Trình vốn coi tre là một thứ trân
quý.
Có một chuyện
bên lề không rõ thực hư. Ông Nguyễn Phúc Ưng Viên, một chân y hậu duệ hoàng tộc
nhà Nguyễn, hỏi tôi cậu có biết sau khi Hoa Đà mổ vết thương rồi cạo chất độc
ngấm vào xương của Quan Công, ông ấy rịt vào đó thứ thuốc gì không, tôi nói tôi
làm sao biết được. Ông bảo đó là “Phùng ma tán”, thuốc này được làm từ gốc tre
già ngâm bùn (tre ngâm bùn gọi là “trúc nịch”). “Phùng ma tán” là thuốc “thiện
trị khẩu thương bất hiệp” (đặc trị vết thương không lành).
Trong loạt
bài Bí ẩn trầm hương (Thanh Niên, 4 – 7.1.2011), tôi có đề cập đến lời của ông
Nguyễn Phúc Ưng Viên “giá trị của tre không thua kém gì trầm”. Đó vẫn là một lời
khiêm tốn, có phần thiếu công bằng đối với cây tre.
Tri thức về
cây tre được Nguyễn Bỉnh Khiêm cung cấp, trên cơ sở đó nhà Nguyễn đã có 400 năm
khảo nghiệm và sử dụng trên mọi lĩnh vực của đời sống và quốc phòng, đúc kết
thành pho y lý ghi trong hai cuốn sách thuốc bí truyền của dòng họ: Nguyễn Phúc
tộc dược minh y kính và Nguyễn Phúc tộc y gia truyền thế thường hành.
Với những
công dụng chữa bệnh kỳ diệu, cây tre còn được các Chân y ngày xưa gọi là “Cứu
tô sâm”, tức là một thứ sâm cứu người. Y lý bí truyền của nhà Nguyễn tổng kết
có trên 200 vị thuốc từ cây tre. Toàn thân cây tre, không có bộ phận nào không
có tác dụng chữa bệnh. Người Việt Nam ta sống với tre, sinh tồn với tre, vì sống
với tre nên ít bệnh tật. Tre chữa bệnh đề cập ở đây là tre mỡ và tre gai, hai
loại tre được trồng phổ biến ở miền Trung nước ta.
Ông Viên
nói ngày xưa trị thương cho quân đội làm gì có các thứ giống tây y sử dụng như
ngày nay, nhưng người lính bị thương do kiếm đâm đao chém, bị bỏng nặng do hỏa
công, đều được chữa trị hữu hiệu bằng “trúc nịch” và các bộ phận khác của cây
tre phối hợp với một số thảo dược.
Chúng ta đều
biết người bị bỏng nặng sẽ bị sốc huyết tương mà chết, tây y chỉ chữa được nếu
bỏng không quá nặng. Cha ông ta trị bỏng, dùng “trúc tâm” (là đọt tre chưa xòe
ra thành lá) kết hợp với cây chuối sứ con. Chuối con xắt lát giã nhuyễn vắt lấy
nước. Đọt tre cũng hơ nóng giã nhuyễn vắt lấy nước. Hai thứ nước này trộn chung
lại bôi đều lên vết bỏng, sẽ chống được sốc huyết tương, bảo toàn và làm hồi
sinh các mạch máu. Sau khi bôi, đắp xác chuối và xác đọt tre lên vết bỏng, mỗi
ngày thay một lần, ban đêm khi ngủ lấy lá chuối non hơ ấm quấn lại. Để vết
thương mau lành, có thể kết hợp thêm với “trúc nịch”. Dùng phương cách này
trong ba ngày sẽ ổn định. Sau khi lành, sẹo để lại rất giới hạn.
“Trúc tâm” kết
hợp với trầm hương, rễ tre và dịch của cây chuối hột chế ra một loại thuốc làm
tái tạo men ruột cho người bị thương hàn, đồng thời cũng dùng làm thuốc trị bỏng
và cầm máu; phối hợp với chè, trắc bá diệp, bồ công anh… để trị thủng ruột non
do kiết lỵ nặng, trị chứng chảy máu cam kinh niên, chứng hơi thở nặng mùi hôi
hám và trĩ ra máu nhiều.
Rễ tre tưởng
là thứ vô dụng chỉ làm xấu đất, nhưng ông Ưng Viên bảo không. Nó là “trúc căn”,
không những không làm xấu đất mà ngược lại nó làm tốt đất, bằng chứng là xung
quanh rễ tre “tập hợp” rất nhiều giun dế. “Trúc căn” có tác dụng kiện tỳ trường
vị, thanh can dưỡng tạng, rất tốt cho cơ thể. Rễ tre non có thể dùng làm dưa hoặc
làm bánh, ngày xưa ở một số vùng miền Trung có món bánh phất làm bằng rễ tre
non. Dưa rễ tre non hoặc bánh phất ăn vừa ngon vừa trợ tiêu hóa, cân bằng cường
toan, giúp men ruột non tốt và giúp ruột non thủy phân thông suốt trực tiếp vào
mạch máu.
Rễ tre còn
gọi là “lạp bát”. Nếu đem rễ tre non nấu cháo với vài loại cá chép hoang dã (cá
chép vàng và đen) cùng một số rau rừng thì gọi là “Lạp bát thang” hoặc “Lạp bát
hoa”, ăn rất ngon, vừa bổ dưỡng vừa chữa được nhiều bệnh và giải được độc.
Rễ tre non
mọc xen dưới gốc chuối, mít, gọi là “trúc liên tiêu”, có thể dùng để bào chế
thuốc trị chứng đau nửa đầu, chứng đau râm ran trong bụng sau khi bị tả lỵ và
thương hàn.Lá tre, gọi là “trúc diệp”, trong tự nhiên giúp cân bằng sinh thái,
khi rơi xuống đất có tác dụng khống chế, thuần hóa các vật ký sinh trong môi
trường. “Trúc diệp” sát tạp khuẩn nên dùng để khử độc trong ẩm thực, gói bánh đặt
một lớp lá tre giữa hai lớp lá chuối sẽ làm bánh ngon hơn và để được lâu hơn.
Lá tre còn lông gọi là “trúc mao diệp”, có thể dùng làm thuốc trị đẹn, nhiễm
trùng họng, nhiễm trùng hô hấp, nhiễm trùng sinh thực nữ; nó còn có thể trị được
chứng trào ngược dạ dày và chứng ách nghịch (nấc cụt).
Chỉ sơ sơ
vài bộ phận “râu ria” của cây tre, những thứ tưởng như bỏ đi, đã thấy quý. Những
bộ phận khác của cây tre còn quý hơn nhiều, trong đó có những chứng bệnh các
Chân y ngày xưa bảo phi tre không cách gì chữa khỏi. Theo sách Nguyễn Phúc tộc
dược minh y kính, các chứng như: “tam quan tuy tuyệt uất đàm bạo nộ”, bệnh biểu
hiện ở ba mạch quan trọng trên cơ thể đã chết, đàm kéo lên như cuồng phong (đàm
ở đây là dịch bôi trơn của tế bào trong cơ thể đồng loạt tiết ra), chứng này là
nan y, thầy thuốc ngày trước bó tay nếu như không có dược liệu từ cây tre; hoặc
chứng “Lục mạch tuy đều hình nhục thoát tử vô sầu tuyệt”, biểu hiện ở 6 mạch đều
bình thường nhưng cơ thể càng ngày càng gầy đi, trạng thái chờ chết nhưng không
sợ chết, chứng này tây y gọi là “lao nhiệt”, đông y gọi là “lao sác”. Bệnh “lao
sác” này dùng thuốc từ tre cứu được (còn tiếp).
HOÀNG HẢI
VÂN
(Nếu có
1000 cái gật quan tâm, sẽ đăng tiếp kỳ sau: DÀY ĐẶC NHỮNG VỊ THUỐC)
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét
Cảm ơn bạn rất nhiều ạ