Năm Ất Tỵ đang đến gần. Năm
con rắn, nói chuyện con rắn chơi.
1. Câu chuyện anh hùng dân tộc Trương Hống và Trương Hát liên quan đến con rắn
2. Con rắn trong Phật giáo.
3. Con rắn liên quan đến tích học trò của cụ Chu Văn An.
4. Con rắn liên quan đến chuyện tru di tam tộc của gia đình cụ Nguyễn Trãi.
5. Chuyện rồng rắn liên quan đến học giả Lê Quý Đôn.
6. Chiếc khăn rắn ở đồng bào Khmer.
Vào
thời tiền Lý Nam Đế, hai anh em Trương Hống và Trương Hát là những người con của
dòng họ Trương. Cả hai được biết đến là những người tài giỏi, có sức khỏe phi
thường và lòng yêu nước nồng nàn. Khi đất nước bị giặc Lương xâm chiếm, hai anh
em đã đứng lên lãnh đạo cùng với Triệu Việt Vương (tức Triệu Quang Phục) cùng
dân chúng đánh giặc, lập nhiều chiến công vang dội. Họ được dân gian truyền tụng
như những anh hùng bảo vệ quê hương và được tôn thờ như thần thánh sau khi mất.
Về sự tích của hai ông liên quan với con rắn như sau: Ở sông Cầu, thuộc Bắc
Ninh ngày nay có một con rắn thành tinh nó thường quấy phá dân lành, gây lũ lụt
và ngăn cản người dân canh tác, đi lại. Người dân khiếp sợ con rắn nhưng không
ai dám đứng lên tiêu diệt nó. Hai anh em Trương Hống - Trương Hát, với lòng
dũng cảm, đã quyết tâm diệt trừ con rắn để cứu dân làng. Họ đã chuẩn bị kỹ lưỡng,
luyện võ và bày mưu tính kế để dụ con rắn lên bờ. Trận chiến diễn ra ác liệt suốt
nhiều ngày. Hai anh em phải dùng toàn bộ sức mạnh và trí tuệ để chiến đấu với
con rắn hung hãn. Cuối cùng, họ đã chém đứt đầu con rắn, giải cứu dân làng và
mang lại sự yên bình cho vùng đất. Sau khi lập nhiều công lao, hai anh em
Trương Hống và Trương Hát mất đi và được dân gian coi như những vị thần. Người
dân lập đền thờ hai anh em ở nhiều nơi dọc sông Cầu, đặc biệt là ở vùng Bắc
Ninh và Bắc Giang. Hai vị thần này thường được gọi là "Thánh Tam
Giang" (chỉ vùng sông Cầu – sông Thương – sông Đuống) và được xem là thần
bảo hộ cho người dân làm nông, giữ gìn bình yên trên sông nước.
Hay
như thần Rắn ở Ấn Độ, thường được gọi là Naga, là một biểu tượng quan trọng
trong văn hóa, tín ngưỡng, và tôn giáo của người Ấn Độ. Naga có ý nghĩa sâu sắc
và xuất hiện trong cả Hindu giáo, Phật giáo, và Kỳ Na giáo (Jainism), đại diện
cho sức mạnh thiên nhiên, sự bảo vệ, và tâm linh. Naga là những sinh vật nửa
người nửa rắn, thường được miêu tả với phần thân dưới là rắn và phần thân trên
là con người. Khi Đức Phật đang ngồi thiền
định tại cội bồ đề, một cơn mưa lớn kéo dài trong nhiều ngày đêm. Nước mưa dâng
cao, ngập quanh chỗ Đức Phật đang ngồi, đe dọa đến sự an toàn của Ngài. Lúc đó,
một con rắn Naga tên Mucalinda, vốn là vua của loài rắn và cư ngụ gần đó, đã nhận
ra mối nguy hiểm đối với Đức Phật. Với lòng kính ngưỡng và trung thành,
Mucalinda đã bò đến chỗ Đức Phật. Nó quấn thân mình thành nhiều vòng, nâng Đức
Phật lên cao hơn mặt nước, bảo vệ Ngài khỏi bị ngập. Sau đó, Mucalinda xòe rộng
cái mũ (hoặc bảy chiếc đầu) để che chắn cho Đức Phật khỏi mưa gió. Đức Phật vẫn
tiếp tục thiền định một cách bình thản, không bị gián đoạn bởi điều kiện khắc
nghiệt. Sau nhiều ngày, khi mưa đã ngừng và ánh mặt trời ló dạng, Mucalinda
tháo vòng quấn và trở về hình dạng của mình. Nó cung kính cúi đầu trước Đức Phật
trước khi trở lại nơi cư ngụ. Hay như trong kinh Phật có viết lúc thái tử Tất Đạt
Đa Cồ Đàm (tức đức Phật Thích Ca Mầu Ni) ra đời thì được con rắn 9 đầu phun nước
tắm. Ngoài ra, trong Kinh Phật bản hạnh có
nhiều câu chuyện kể về các tiền kiếp của Đức Phật, trong đó Đức Phật từng tái
sinh làm một Naga hoặc được Naga bảo vệ. Một câu chuyện nổi tiếng kể rằng Đức
Phật tiền kiếp từng làm vua rắn và đã hy sinh thân mình để cứu mạng những sinh
linh khác, thể hiện lòng từ bi vô lượng. Hay trong Kinh Pháp Hoa Trong phẩm thứ
12 của kinh này, có câu chuyện về Long Nữ, con gái của vua rồng (Naga), chỉ mới
8 tuổi nhưng đã chứng ngộ và đạt được Phật quả nhờ sự giảng dạy của Đức Phật.
Câu chuyện này mang ý nghĩa khẳng định rằng mọi chúng sinh, bất kể giới tính
hay hình thức, đều có khả năng đạt được giác ngộ.
Sự
tích về rắn cũng xuất hiện vào đời nhà Trần. Ngày xưa, ở làng Văn, vùng đất hiếu
học thuộc huyện Thanh Trì, có một thầy đồ nổi tiếng khắp nơi về đạo đức và tài
năng, tên là Chu Văn An. Ông là người thầy nghiêm khắc, học rộng, đức cao và
luôn lấy việc dạy học, rèn đức làm trọng. Học trò khắp nơi tìm đến xin học,
mong được lĩnh hội tri thức và đạo làm người.
Trong
số các học trò của Chu Văn An, có một người trẻ tuổi trông dáng vẻ bình thường
nhưng luôn trầm mặc ít nói. Người này có đôi mắt sâu thẳm, thoáng ánh lấp lánh
như nước hồ thu, tỏ vẻ bí ẩn. Mỗi khi thầy giảng, cậu ta chăm chú lắng nghe, tiếp
thu rất nhanh và thường đưa ra những câu hỏi sâu sắc, làm mọi người kinh ngạc.
Dân
làng đồn rằng, cậu học trò này không phải người thường mà là một con giao long
(rắn thần) từ dưới thủy phủ hóa thành người, đến để học đạo. Dù có tin đồn ấy,
Chu Văn An vẫn đối xử với cậu như bao học trò khác, nghiêm túc dạy dỗ, không
phân biệt người hay thần.
Một
năm nọ, vùng Thanh Đàm gặp đại hạn, nắng hạn kéo dài, đồng ruộng nứt nẻ, cây cối
khô héo, dân tình khốn khổ vì thiếu nước. Lũ học trò cùng dân làng nhiều lần
làm lễ cầu mưa nhưng trời vẫn xanh không một gợn mây. Thấy dân chúng lầm than,
Chu Văn An không khỏi đau lòng, bèn cùng học trò tìm cách cứu giúp.
Người
học trò thần bí kia bỗng đứng dậy, xin phép thầy cho mình đi gọi mưa cứu hạn.
Trước khi đi, cậu mượn cây bút lông và nghiên mực của thầy, rồi rời khỏi lớp học,
đi ra đồng. Tại một bãi đất rộng giữa cánh đồng khô cạn, cậu cầm bút nhúng mực,
vẩy từng giọt mực lên trời. Kỳ lạ thay, mỗi giọt mực rơi lên không trung, trời
bỗng tối sầm lại, mây đen ùn ùn kéo đến, sấm chớp vang rền. Chẳng mấy chốc, một
cơn mưa lớn trút xuống, làm hồi sinh cả vùng đất khô cằn.
Dân làng vui mừng khôn xiết, họ tôn cậu học trò là một vị thần cứu độ. Nhưng ngay sau đó, cậu biến mất, không trở lại lớp học nữa. Khi dân làng ra bãi đất, họ phát hiện dấu vết của một con giao long to lớn trườn đi, để lại những đường rạch sâu trên nền đất ẩm.
Hay
như chuyện về con rắn cũng xuất hiện vào đời nhà Lê Sơ.
Kể rằng, cha của Nguyễn Trãi vì muốn mở lớp dạy học.
Một hôm ông đi ngang qua khu đất trống có nhà bỏ hoang, ông bèn gọi
học trò vào khai phá cỏ, phát quang bụi rậm. Thấy có một con mãng
xà mẹ rất lớn dẫn theo đàn mãng xà con. Thấy lưỡi dao vung lên, mãng
xà mẹ bèn tháo chạy, mãng xà con không chạy kịp nên bị giết. Đêm
đến, ông ngồi đọc sách, đâu đó có con mãng xà ở trên trần nhà, máu
của nó nhỏ xuống cuốn sách ông đang đọc, giọt máu rưới thành chữ
TỘC (chữ Hán) thấm qua ba lớp giấy. Đúng như dự đoán, sau này tới Nguyễn Trãi bị tru di tam tộc. Chỉ có hậu duệ chạy thoát về Thái Bình. Sau
khi Nguyễn Trãi được minh oan. Vua mời hậu duệ Nguyễn Trãi là Nguyễn Anh
Vũ về phong chức tước bổng lộc.
Xảy
ra Vụ án Lệ Chi viên, tức Vụ án vườn vải, là một vụ án oan nổi tiếng thời
Lê sơ. Qua vụ án này, quan Đại thần Hành khiển Nguyễn Trãi và vợ là Lễ nghi học
sĩ Nguyễn Thị Lộ bị triều đình Lê Sơ kết tội giết vua Lê Thái Tông, bắt tội
chém đầu đến 3 họ nhà Nguyễn Trãi.
Đến
năm 1464, thời vua Lê Thánh Tông, Nguyễn Trãi được minh oan, người con còn sống
sót duy nhất của ông là Nguyễn Anh Vũ được cất làm quan huyện, bản thân ông được
truy tặng tước hiệu
Có
giai thoại về người con Nguyễn Anh Vũ rằng:
Cái
án giết vua đã thành. Thị Lộ bị tội trảm quyết. Khi đao phủ sắp sửa đem xử tù,
thì nàng xin phép được xuống sông tắm gội lần chót. Người ta y theo lời xin,
cho một người lính gác tù đi theo canh giữ. Nhưng khi vừa bước xuống nước, rắn
lập tức trở lại nguyên hình và trườn xuống sông mất tích. Người lính gác để sổng
mất nữ tù liền bị bắt giam và theo luật phải chết thay.
Vụ
án Thị Lộ, vì chính phạm trốn mất, nên búa rìu dư luận tự nhiên giáng xuống đầu
cả họ Nguyễn Trãi. Theo lệnh triều đình, bà con thân thích của ông bất kể nam nữ
già trẻ, tất cả đều bị xử giáo. Riêng có Nguyễn Trãi và người lính gác tù thì bị
đem đi chôn sống. Người ta đào một cái hố, đẩy phạm nhân xuống rồi lấp đất lại.
Đó là cách hành hình kinh khủng nhất của triều đình. Hôm thi hành bản án, người
lính gác là kẻ chịu cực hình đầu tiên. Khi sắp sửa đến lượt Nguyễn Trãi, bỗng
có một người đàn bà vợ anh lính gác, ở đâu chạy tới nhảy chồm lên mộ chồng gào
khóc thảm thiết, đòi một hai chết theo cho trọn đạo. Trước cảnh thương tâm,
Nguyễn Trãi khuyên chị:
-
Ta vì một người thiếp mà chết oan cả họ, còn chồng nàng thì lại vì ta mà bị thiệt
thân. Thôi, nàng hãy coi đó là số mệnh, đừng khóc nữa. Hãy ngửa bàn tay cho ta
ghi lại một chút dấu tích. Sau này nếu có việc gì thì đừng quên ta!
Khi
người đàn bà ngửa tay ra trước mặt ông, ông bèn nhổ vào lòng bàn tay một bãi nước
bọt.
Vợ
người lính gác vừa hứng lấy bãi nước bọt thì bỗng nhiên rùng mình cảm động. Từ
đấy nàng có mang, đủ chín tháng mười ngày sinh được một người con trai rất khôi
ngô. Nàng đặt tên là Anh Vũ.
Xin
kể chút công trạng của Nguyễn Trãi. Ông là người viết thư gửi Lê Lợi để tham
gia nghĩa quân Lam Sơn (1419) một năm sau Lê Lợi cho ông gia nhập nghĩa quân,
ông lấy cái đức để thắng cái hung tàn, lấy chí nhân để thay cường bạo, nhiều lần
viết thư gửi cho Vương Thông chiêu dụ hắn ra hàn ở thành Đông Quan. Đến năm
1427 chiến thắng thành công, ông cấp thuyền cấp ngựa, cấp vàng, bạc, châu báu,
xây đường cho giặc về nước. Vì việc không giết những toán quân còn lại nên Nghĩa
quân Lam Sơn được gọi là quân đội Phật. Sau chiến thắng ông xây cái chòi canh rất
cao, hằng ngày ông cùng Lê Lợi leo lên chòi canh cao ấy để bàn việc nước và xem
dân chúng sống như thế nào, lấy dân làm gốc.
Và
mới đây nhất là chuyện về rồng rắn gắn liền với học giả Lê Quý Đôn
Một
ngày nọ, có vị khách lạ từ phương xa đến làng, dáng vẻ nho nhã, phong thái học
thức. Đến đầu làng, ông bắt gặp một đám trẻ đang tắm truồng bên ao. Ông hỏi:
-Các
cháu, có ai biết đường đến nhà quan Nghè Thứ không?
Một
cậu bé chừng bảy, tám tuổi, thân trần tồng ngồng, nhảy phắt lên bờ. Cậu chống nạnh nghênh ngang:
-Ông
là người học cao, chắc cũng giỏi chữ. Vậy cháu đố ông đây là chữ gì. Nói được,
cháu chỉ đường!
Cậu
bé đứng dạng hai chân, hai tay ra, trông như đang cố hình dung một chữ. Vị
khách bật cười, đáp ngay:
-Là
chữ Đại (大) chứ gì!
Cậu
bé lắc đầu, cười hô hố:
-Sai
rồi! Đây là chữ Thái (太).
Ông không thấy dấu chấm là cái "của quý" của cháu đây sao?
Nói
xong, cậu nhảy ùm xuống nước, cùng đám bạn cười giòn giã. Vị khách chỉ biết lắc
đầu, vừa buồn cười vừa ngạc nhiên vì sự láu lỉnh của cậu bé.
Khi
đến nhà quan Nghè Thứ, vị khách ngồi trò chuyện, uống trà. Chẳng ngờ, cậu bé
ban nãy chính là con trai quan Nghè. Thấy cậu lí nhí chào, ông khách bật cười kể
lại câu chuyện vừa xảy ra.
Quan
Nghè Thứ nghe xong thì giận lắm, cho rằng đó là hành vi hỗn láo. Ông sai con
mang roi ra, nằm sấp trên phản. Cậu bé răm rắp nghe lời, nhưng vị khách can
ngăn:
-Cháu
còn nhỏ, chỉ là đùa nghịch thôi. Nếu muốn phạt, hãy để cháu chuộc lỗi bằng cách
làm thơ.
Quan
Nghè gật đầu, hỏi:
-Vậy
xin ngài ra đề.
Vị
khách trầm ngâm rồi nói:
-Năm
nay là năm Tỵ, đề bài sẽ là: Rắn đầu biếng học. Phải làm thơ thất ngôn bát cú,
lời lẽ xin lỗi cha mẹ và hứa sẽ chăm học hơn.
Không
chần chừ, cậu bé ngẩng đầu, đọc liền mạch:
Chẳng
phải liu điu cũng giống nhà,
Rắn đầu biếng học lẽ không tha.
Thẹn đèn hổ lửa đau lòng mẹ,
Nay thét mai gầm rát cổ cha.
Ráo mép chỉ quen tuồng lếu láo,
Lằn lưng chẳng khỏi vệt dăm ba.
Từ nay Trâu, Lỗ xin siêng học,
Kẻo hổ mang danh tiếng thế gia.
Vị
khách nghe xong thì sửng sốt. Cậu bé không chỉ khéo léo đưa tên các loài rắn
(liu điu, hổ lửa, rắn ráo, hổ mang...) vào bài thơ mà còn dẫn điển tích về Khổng
Tử (nước Lỗ) và Mạnh Tử (nước Trâu), khiến ý tứ bài thơ sâu sắc và đậm tính
giáo dục.
Vị
khách vỗ tay khen ngợi:
-Giỏi
quá! Đúng là thần đồng.
Hay như trong văn hóa của Khmer người dân hay đội khăn ca rô như da con rắn, để tượng trưng có vị thần Naga (thần rắn) bảo hộ, ban đầu nó có tên gọi là khăn rắn dần dà nói nhẹ giọng tý thì thành ra khăn rằn. Hê Hê Hê
Tất cả trên là những câu chuyện liên quan đến con rắn. Hê hê hê. Năm mới sắp đến, kính chúc quý thân hữu cùng gia đình nhiều sức khỏe, hạnh phúc, thành công, vạn sự như ý.
(26 tháng Chạp năm Giáp Thìn)
Hậu học cẩn bút và sưu tầm
Trường An Đỗ Tấn Thích
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét
Cảm ơn bạn rất nhiều ạ