Cuối thế kỷ
XIX, đầu thế kỷ XX, ở Sài Gòn nổi lên tứ đại hào phú lẫy lừng: “Nhất Sỹ, nhì
Phương, tam Xường, tứ Định”. Bốn đại gia này không chỉ giàu có nhất đất Sài Gòn
mà còn là những người giàu nhất Nam Kỳ lục tỉnh và xứ Đông Dương. Gắn liền với
tên tuổi của bốn đại gia này là những giai thoại về sự giàu có đáng kinh ngạc,
mà trong số đó, “Nhất Sỹ” – Huyện Sỹ, ông ngoại của Nam Phương Hoàng Hậu, là
người giàu có bậc nhất.
Hiện Huyện
Sỹ vẫn được lưu danh cùng với công trình chứng minh cho khối tài sản khổng lồ của
mình là nhà thờ Huyện Sỹ. Ông có tên thật là Lê Nhất Sỹ, sinh năm 1841 tại Cầu
Kho, Sài Gòn, nhưng quê quán ở Tân An, Long An trong một gia đình theo Công
giáo. Thuở nhỏ, ông mang tên thánh là Philipphê.
Huyện Sỹ được
các tu sĩ người Pháp đưa sang du học ở Pénang, Malaysia. Ở đây, ông Sỹ được học
các ngôn ngữ: như tiếng La Tinh, tiếng Pháp, tiếng Hán và tiếng Quốc ngữ. Do
tên của ông trùng tên với một người thầy dạy nên người thầy đã đổi tên Sỹ thành
Lê Phát Đạt.
Khi về nước,
ông Lê Phát Đạt được Chính phủ Nam Kỳ bổ dụng làm thông ngôn, rồi từ năm 1880
thì làm Ủy viên Hội đồng Quản hạt Nam Kỳ. Mặc dù đã đổi tên nhưng bà con lối
xóm vẫn gọi ông bằng cái tên cúng cơm là Sỹ. Cũng bởi vậy, cái tên Huyện Sỹ Lê
Phát Đạt đã gắn bó với số phận của ông.
Mặc dù xuất
thân trong một gia đình không quá giàu có nhưng đến đời của Lê Phát Đạt thì ông
đã nhanh chóng trở thành người giàu có bậc nhất đất Sài Gòn. Theo học giả Vương
Hồng Sển trong cuốn sách “Sài Gòn năm xưa” thì việc phất lên nhanh chóng của
ông Lê Phát Đạt có không ít yếu tố may mắn.
Tương truyền
buổi đầu, Tây mới qua, dân cư tản mác. Pháp phát mãi ruộng đất vô thừa nhận,
giá bán rẻ mạt mà vẫn không có người đầu giá. Bấy giờ, những chủ cũ đều đồng hè
bỏ đất, không nhìn nhận, vì nhận e nỗi quan và triều đình Huế khép tội theo
Pháp, vả lại cũng ước ao một ngày kia Tây bại trận rút lui. Chừng đó ai về chỗ
nấy, hấp tấp làm chi cho mang tội…
Không dè bởi
đất không ai nhìn, nên Pháp lập Hội đồng Thành phố, Ủy ban Điền thổ rồi đưa
nhau đi khám xét từng vùng. Đến chỗ nào địa thế tốt, thì những ủy viên bản xứ
nhận là của mình: “Ùy” một tiếng! Đến chỗ nào nẻ địa thì lắc đầu, tiếp theo nói
“Nông” cũng một tiếng! Chung quy chỉ học hai tiếng “Ùy”, “Nông” mà có ông Lê
Phát Đạt lập nghiệp truyền tử lưu tôn.
Trận bão
năm Giáp Thìn, tức năm 1904, đất Gò Công bỏ hoang vô số kể, ai đủ can đảm chịu
ra mặt đóng thuế thì làm chủ chính thức, mà có ai thèm đâu… Thế rồi, nài ép Lê
Phát Đạt, ông bất đắc dĩ phải chạy bạc mua liều. Nào ngờ vận đỏ, ruộng trúng
mùa liên tiếp mấy năm liền. Ông trở nên giàu có nhanh chóng.
Mặc dù giàu
có như vậy, nhưng trong nhà ông Lê Phát Đạt có treo câu đối dạy đời:
Cần dữ kiệm,
trị gia thượng sách
Nhẫn nhi
hòa, xử thế lương đồ
Bên cạnh
đó, cũng có những lời đồn rằng ngôi nhà lầu đồ sộ của Huyện Sỹ tại Tân An, nằm
gần ngã ba sông Tân An và Bảo Định đã được cất trên thế đất hàm rồng nên gia
đình ông trở nên giàu có, danh vọng bậc nhất thời đó.
Có một số
ví dụ để mô tả sự giàu có của ông Huyện Sỹ:
Ngày nay, nếu
đi bằng xe máy từ nhà thờ Huyện Sỹ đến nhà thờ Hạnh Thông Tây phải mất gần một
tiếng, đủ thấy vùng đất của Huyện Sỹ mênh mông chừng nào. Không chỉ có thế, các
con của Huyện Sỹ như bà Lê Thị Bính – mẹ của Nam Phương hoàng hậu, Lê Phát
Thanh, Lê Phát Vĩnh, Lê Phát Tân đều là những đại điền chủ có rất nhiều đất đai
ở Tân An, Đức Hòa, Đức Huệ và Đồng Tháp Mười.
Riêng trưởng
nam của Huyện Sỹ là Lê Phát An được vua Bảo Đại phong tước An Định Vương. Ông
Lê Phát An là người duy nhất trong lịch sử Nam Kỳ thuộc hàng dân dã, không là
“hoàng thân, quốc thích” được lên ngôi vị cao quý nhất của triều đình.
Mức độ giàu
có của gia đình Huyện Sỹ còn được đồn thổi là lớn hơn rất nhiều lần so với vua
Bảo Đại. Vậy nên, mới có câu chuyện là vào năm 1934, nhân dịp gả cô cháu gái
Nguyễn Hữu Thị Lan, tức Nam Phương Hoàng Hậu về Huế làm Hoàng hậu, Lê Phát An
đã tặng cho Nguyễn Hữu Thị Lan một triệu đồng tiền mặt để làm của hồi môn. Nếu
quy đổi thì 1 triệu đồng lúc bấy giờ có giá vàng khoảng 50 đồng/lượng. Vậy nên
món quà này tương đương 20.000 lượng vàng. Gia đình Nguyễn Hữu Hào, cha của Nam
Phương hoàng hậu, rể của Huyện Sỹ cũng giàu có hơn vua Bảo Đại. Trong đời làm
vua của mình, vị hoàng đế thích ăn chơi Bảo Đại thường dùng tiền của vợ nhiều
hơn của hoàng gia.
Sự giàu có
của Huyện Sỹ Lê Phát Đạt cho đến nay vẫn còn thể hiện một cách rõ nét qua các
công trình xây dựng, một trong số đó chính là nhà thờ Huyện Sỹ. Ngôi nhà thờ
này đã được ông Huyện Sỹ hiến đất và xuất 1/7 gia tài để xây dựng, tính theo thời
giá lúc bấy giờ là khoảng trên 30 ngàn đồng bạc Đông Dương. Nhà thờ được khởi
công xây dựng năm 1902 theo thiết kế của linh mục Bouttier, đến năm 1905 thì
nhà thờ được khánh thành. Nhà thờ tọa lạc trên một khu đất cao và rộng hơn một
mẫu, nằm ở góc đường Frère Louis, nay là đường Nguyễn Trãi và Frère Guilleraut,
nay là đường Tôn Thất Tùng. Ban đầu nhà thờ có tên là Nhà thờ Chợ Đũi do thuộc
họ đạo Chợ Đũi. Mặt khác, do Thánh Philípphê tông đồ là bổn mạng của Huyện Sỹ
nên còn được gọi là Nhà thờ Thánh Philípphê. Tuy vậy, dân gian vẫn gọi là Nhà
thờ Huyện Sỹ và sau đó dần trở thành tên chính thức của nhà thờ này.
Nhà thờ Huyện
Sỹ dùng đá Granite Biên Hòa để ốp mặt tiền và các cột chính điện, theo phong
cách kiến trúc Gothic. Chính điện nhà thờ có vòm chịu lực dạng cung nhọn, tường
có nhiều cửa sổ dạng vòm đỉnh nhọn và được trang trí bằng lớp kính màu ghép
hình mua từ Ý. Bên trong các gian tường có nhiều tượng thánh. Trên vòm cửa
chính có tượng thánh Philípphê bổn mạng nhà thờ bằng đá Cẩm Thạch, đứng cầm cây
thánh giá Phục sinh, ngọn tháp chuông chính cao 57 m kể cả chiều cao thánh giá
và con gà trống Gaulois. Bên trong tháp có bốn quả chuông được đặt đúc tại Pháp
năm 1905, hai quả lớn có đường kính 1,05 m do con trai và con dâu Huyện Sỹ là
ông Gioan Baotixita Lê Phát Thanh và bà Anna Đỗ Thị Thao tặng. Hai quả chuông
nhỏ đường kính 0,95 m không ghi tên người tặng, có lẽ là của ông bà Huyện Sỹ đặt
đúc cùng năm.
Nhà thờ Huyện
Sỹ được đánh giá là có khuôn viên rộng rãi khoáng đãng nhất ở Sài Gòn. Phía trước
nhà thờ có tượng đài thánh tử đạo Việt Nam là Mátthêu Lê Văn Gẫm, gần cổng
chính còn có đài thiên thần hộ thủ và tượng đài Thánh Giuse. Bên trái khuôn
viên là núi Đức Mẹ Lộ Đức, được xây dựng năm 1960 để kính Đức Mẹ Lộ Đức. Hằng
năm cứ vào ngày 11 tháng 2 dương lịch, các linh mục chính xứ Chợ Đũi có thói
quen cử hành thánh lễ tại núi này để cầu nguyện đặc biệt cho các bệnh nhân.
Phía bên phải khuôn viên nhà thờ là đồi Canvê, có tượng chuộc tội rất lớn được
xây dựng năm 1974 dưới thời linh mục Gioan Baotixita Dương Hoàng Thanh. Nhà thờ
có chiều dài 40 m, chia làm 4 gian, rộng 18 m.
Thiết kế
ban đầu của nhà thờ Huyện Sỹ gồm 5 gian, tức khoảng 50 m. Nhưng thời gian đó,
nhà thờ tạm Chí Hòa bị hư hại trầm trọng. Vì vậy, giới chức trong họ đạo Chợ
Đũi đã xin cắt bớt một gian, dùng số tiền đó để xây nhà thờ Chí Hòa.
Ông Huyện Sỹ
qua đời năm 1900 khi nhà thờ chưa xây dựng xong. Về sau khi vợ ông là bà Huỳnh
Thị Tài mất năm 1920, người ta mới đưa hai ông bà chôn ở gian chái sau cung
thánh của nhà thờ này. Gian chái bên trái là tượng bán thân ông Huyện Sỹ bằng
thạch cao gắn cột đầu, phía sau là phần mộ bằng đá Cẩm Thạch được trang trí hoa
văn. Trên mộ là tượng toàn thân ông Huyện Sỹ kê đầu trên hai chiếc gối bằng đá
Cẩm Thạch được điêu khắc tinh xảo, đầu chít khăn đóng quay về cung thánh nhà thờ,
mình mặc áo dài gấm hoa văn tinh xảo, hai tay đan vào nhau trước ngực, chân đi
giày. Đối diện bên phải là tượng vợ ông là bà Huỳnh Thị Tài với tóc búi cũng dựa
trên hai chiếc gối, hai tay nắm trước ngực, mặc áo dài gấm, chân mang hài. Phía
trong cùng còn có tượng bán thân của con trai và con dâu ông bà là Gioan
Baotixita Lê Phát Thanh và Anna Đỗ Thị Thao. Cho đến nay, công trình này vẫn được
xem là một điểm đến thu hút khách du lịch muốn tìm hiểu về cuộc đời của đại gia
giàu có bậc nhất đất Sài Gòn xưa.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét
Cảm ơn bạn rất nhiều ạ