“Nếu làm
vua mà làm cho dân giàu, nước mạnh thì hãy làm. Còn ngôi vua ư? Ta coi ngôi vua
như chiếc dép rách mà thôi!” – Nhà giáo Chu Văn An nói với vua Trần Nghệ Tông
như vậy.
Những người
thầy cao cả của vua Hàm Nghi
Thầy giáo
Nguyễn Doãn Cử, quê Vũ Thư – Thái Bình đỗ Cử nhân, được làm giảng quan của phủ
Tôn Nhân, chuyên dạy con em vương hầu nhà Nguyễn. Có lần, cậu bé Ưng Lịch không
thuộc bài, thầy Cử đã phạt đòn thẳng tay, bất chấp trò là dòng dõi vương tôn.
Sau đó thầy cử liền dâng sớ tạ tội, cáo quan về quê cũ.
Nhưng vua Tự
Đức chẳng những không quở trách mà còn đưa thêm roi cho thầy và nói: Khanh quý
trẫm vì nể trọng khuôn phép, chứ không phải nể quyền uy nơi trẫm. Nếu không
nghiêm như vậy thì làm sao đào luyện được tài năng, hoàng tộc sẽ không có người
kế nghiệp xứng đáng.
Cậu bé Ưng
Lịch bị thầy đánh đòn ấy sau này trở thành vua Hàm Nghi, một ông vua yêu nước được
lưu danh trong sử sách.
Trong các
thầy dạy vua Hàm Nghi, người đời cũng nhớ đến thầy Nguyễn Nhuận. Dù không đỗ
cao, ông là một nhà Nho được kính nể không chỉ vì trí tuệ uyên thâm mà còn cả sự
liêm khiết, quang minh. Sau một thời gian mở trường dạy ở quê, ông được mời vào
kinh dạy con cháu hoàng tộc. Trong các học trò của ông có cả Ưng Lịch, khi đó là
một cậu bé ngỗ nghịch ít được chú ý đến.
Sau này Ưng
Lịch trở thành vua Hàm Nghi, nhớ công ơn thầy dạy dỗ, muốn phong cho thầy một
chức quan trong triều. Để tạ ơn vua, nghĩ đến quê mình có vùng đất Tuyên Hóa
nghèo khổ lại toàn là núi rừng, dân chúng ít học, thầy Nguyễn Nhuận đã xin được
về Tuyên Hóa nhận chức Tri huyện.
Thời gian cụ
làm quan ở huyện này, toàn huyện không có ăn xin ăn mày, không có trộm cắp, vườn
tược nhà nhà thông thương, hoa quả không bị mất trộm, nhà nhà không phải đóng cửa
khi chủ đi vắng…
Vua Lê Hiến
Tông và bát canh của người thầy
Lê Hiến Tông
(1461 – 1504) là một vị vua thông minh, nhân từ và ôn hoà. Dưới thời của ông, đất
nước vẫn duy trì được sự thái bình, thịnh trị có từ thời vua cha Lê Thánh Tông.
Sách Đại
Nam Nhất Thống Chí đã ghi lại một câu chuyện cảm động về đạo thầy trò
trong một lần vua Lê Hiến Tông về thăm thầy cũ. Nội dung câu chuyện như sau:
Xa giá về đến
cổng làng Châu Khê, nhà vua ra lệnh dừng kiệu và bước xuống đầu đường rẽ vào nhà
thầy, vua chọn 2-3 cận thần cùng một vị quan sở tại tháp tùng vua vào nhà thầy
giáo. Vua ôn tồn nói với mọi người đi theo:
– Hôm nay
trẫm về đây là để thăm thầy chứ không phải vi hành, công cán vì vậy cho phép các
khanh về nghỉ ở công quán.
Mọi người bái
tạ nhà vua rồi đi vào các quán dịch. Ở đó, các quan địa phương chuẩn bị chu đáo,
có chăng đèn, kết hoa, có bàn trà nước. Nhà vua đi bộ cùng viên quan trấn và mấy
quan hầu cận tiến vào nhà thầy. Không trống phách, không nhạc nhã, không có tiếng
hô dẹp đường. Cụ Thượng thư già cùng các con cháu và giai nhân mũ áo chỉnh tề
ra tận đầu thôn bày hương án nghênh tiếp nhà vua. Thấy thầy giáo, vua vội vàng đến
gần cụ. Theo nghĩa vua tôi, cụ sụp lạy. Nhà vua hai tay nâng vai thầy lên, ôn tồn:
– Xin lão
tiên sinh bình thân để cho đệ tử không bị thất lễ.
Vua nói với
những người đang quỳ rạp hai bên đường:
– Cho tất cả
các người đứng dậy cùng trẫm về nhà tôn sư!
Vua nhắc lại
lời nói với các quân sĩ và với người thân của thầy giáo:
– Hôm nay
trẫm đến đây là học trò về thăm thầy, chứ không phải thiên tử đi kinh lý, nghi
lễ ở chốn triều đình dùng vào lúc khác!
Ngôi nhà thầy
Nguyễn Bảo giản dị, cổ kính và gọn gàng, đúng với phong thái của chủ nhân – một
bần nho trong sáng. Vua mời cụ ngồi lên sập giữa để mình đứng vấn an thầy. Cụ
giật mình:
– Tâu bệ hạ
đâu lại có thể như thế được. Đạo thầy là nặng, song phép nước cao hơn, xin hoàng
thượng cho lão phu này được đứng hầu! Người ngoài trông vào sao tiện ạ!
Nhà vua nhẹ
nhàng:
– Thưa tôn
sư, họ đã biết mục đích của trẫm hôm nay rồi. Tôn sư cho phép đệ tử ngồi chung
là đã quá lắm rồi.
Nói xong,
nhà vua đỡ cụ xuống cùng ngồi đàm đạo. Vua hỏi thăm sức khoẻ và đời sống của thầy
cùng gia đình, xin xem những bài thơ của thầy làm khi nhàn rỗi ở chốn thôn dã.
Khi người nhà của cụ giáo dâng trầu nước chỉ đứng ở sân dưới thềm, chuyển qua
các thị vệ dâng lên cụ giáo và nhà vua. Vua Hiến Tông lại khoát tay:
– Thôi để họ
mang thẳng lên đây, chắc họ cũng muốn gần vua một chút. Âu cũng là cái lộc của
lão tiên sinh đây!
Thưởng thức
chén trà ngát hương sen đồng nội, nhà vua nói với các quan theo hầu:
– Trẫm cho
các ngươi lui! Chiều nay trẫm không dùng “ngự thiện”, trẫm xin với lão tiên
sinh cùng gia đình ăn bữa cơm quê. Trẫm muốn được ngồi chung mâm với thầy cũ
cho thoả tình thầy trò, chắc lão tiên sinh cho phép.
Cụ giáo nghẹn
ngào:
– Xin bái tạ
đức vua! Thánh chỉ đã truyền, thần xin vâng mệnh!
Bữa cơm thầy
trò chiều hôm đó diễn ra thân mật. Các con cụ đứng hầu từ xa ngắm thầy trò nhà
vua đối ẩm với thứ rượu nếp quý quê nhà hương thơm sực nức, nghe thầy trò nhà
vua vừa ăn vừa ngâm nga thơ phú. Cụ Châu Khê có lẽ còn vui hơn cả nhà vua, bởi
lẽ là ông có học trò ở ngôi tôn quý nhất nước vẫn mực thước thuỷ chung giữ đạo
nghĩa thầy trò. Ông càng hài lòng vì học trò cũ của ông dẫu ngồi trên ngai vàng
vẫn không quên gốc. Nhà vua đặc biệt thưởng thức món canh cua quê kiểng, bất giác
nói với cụ Châu Khê:
– Thầy cho
con ăn một bát canh này thật là một niềm hạnh phúc. Hương vị cua đồng quê nhà ít
có thức ăn nào sánh tày, quả là ngon.
Danh sư Chu
Văn An: Ta coi ngôi vua như chiếc dép rách mà thôi
Nhà giáo lỗi
lạc Chu Văn An (1292 – 1370) là người chính trực, đã từng đỗ Thái học sinh nhưng
không ra làm quan mà mở trường dạy học ở làng Huỳnh Cung, bên kia sông Tô Lịch.
Vua Trần Minh Tông (1300 – 1357) đã mời ông ra làm tư nghiệp Quốc tử giám, dạy
cho Thái tử Trần Vượng, tức là vua Trần Hiến Tông tương lai.
Đến đời Dụ
Tông, ông thấy quyền thần làm nhiều điều vô đạo, ông dâng Thất trảm sớ xin chém
7 tên gian nịnh, nhưng vua không nghe. Ông chán nản từ quan về ở núi Phượng Hoàng
(Chí Linh, Hải Dương), lấy hiệu là Tiều ẩn (người đi ẩn hái củi), dạy học, viết
sách.
Vào những dịp
trong triều có lễ hội lớn, ông vẫn được đón về kinh tham dự. Một lần vua Dụ Tông
giao cho ông coi việc chính sự, ông từ chối. Biết tin này, bà Hoàng Thái Hậu (tức
bà nội vua), nói với những người xung quanh: “Bậc sĩ phu sửa mình trong sạch, dẫu
thiên tử cũng không bắt làm bề tôi được. Sao có thể đem bổng cao chức trọng mà
dụ dỗ người ta…”. Vua sai nội thần mang áo đến ban tặng, ông tạ ơn xong rồi đem
cho người khác. Ai cũng khen cái phong độ của ông là cao thượng.
Khi Trần
Nghệ Tông (1370-1372) lên ngôi, Chu Văn An ra kinh đô bệ kiến vua mới, nhưng không
nhận chức tước gì, rồi trở về núi cũ. Đông đảo học trò theo tiễn có hỏi:
– Từ nhà
vua đến đông đảo các sĩ phu và quan chức đều là học trò của thầy, sao thầy không
ở lại để đảm đương một trọng trách? Thầy coi thường những chức tước của triều đình
lắm sao?
Nhà giáo
Chu Văn An nói:
– Cái quan
trọng của con người không ở chỗ chức tước mà ở phẩm giá. Giữ một chức phận nhỏ
mà có ích cho đời thì đáng quý biết bao nhiêu. Còn giữ chức tước lớn mà không làm
gì có lợi cho dân, cho nước thì chức tước ấy có nghĩa gì. Các con có nhớ Đức Thái
Tông triều Trần ta đã nói gì khi Trần Thủ Độ mời người trở lại làm vua không?
Ngài nói: “Nếu làm vua mà làm cho dân giàu, nước mạnh thì hãy làm. Còn ngôi vua
ư? Ta coi ngôi vua như chiếc dép rách mà thôi!”.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét
Cảm ơn bạn rất nhiều ạ