Hermann Hesse (**)
Việt dịch : Phùng Khánh & Phùng Thăng
Xin giới thiệu chương đầu và chương cuối tác phẩm " Câu
Chuyện Dòng Sông " của Hermann Hesse, qua bản dịch tài hoa của hai dịch
giả Phùng Khánh & Phùng Thăng.
P/S : Các bạn có thể click vào trang nguồn ( tuvienquangduc) ở
cuối trang để đọc toàn bộ tác phẩm văn học này.
Trần Hồ Dũng
-------------------------------------------
Câu Chuyện Dòng Sông
Nguyên tác: Hermann Hesse
Việt dịch: Phùng Khánh & Phùng Thăng
--o0o--
( Trích )
Chương một
TẤT ĐẠT
Cạnh những con thuyền, dưới ánh nắng ven sông, trong bóng cây cổ
thụ và trong khu rừng vàng nhạt, Tất Đạt, người con trai Bà La Môn đĩnh ngộ ấy
đang lớn lên cùng bạn chàng là Thiện Hữu. Nắng nhuộm màu “bồ quân” đôi vai thon
đẹp khi chàng tắm lễ “thánh tẩy”. Mắt chàng thoáng những nét trầm tư mỗi lúc
chàng dạo chơi trong khu rừng xoài, khi nghe mẹ hát, trong những buổi học với
cha, hay khi chuyện trò cùng những người thức giả. Tất Đạt từ lâu đã sớm dự
phần trong các cuộc đàm luận của những bậc tri thức, thường tranh biện với
Thiện Hữu và cùng bạn thực tập suy tư quán tưởng. Chàng có thể đọc tiếng “Om”*
trong im lặng – nói tiếng ấy trong tâm khi thở vào và thở ra, với tất cả tâm
hồn, vầng trán chàng chói ngời tia sáng trí tuệ.
Cha chàng rất sung sướng vì con thông minh và khát khao hiểu
biết. Ông tin tưởng chàng sẽ lớn lên thành một học giả, một mục sư, một hoàng
tử trong giới Bà La Môn.
Mẹ chàng đầy kiêu hãnh khi nhìn con đi, đứng, khoẻ mạnh, xinh
đẹp, dẻo dai. Tất Đạt chào mẹ với một dáng điệu nho nhã.
Và mỗi khi Tất Đạt dạo bước qua phố phường, với vầng trán cao,
đôi mắt vương giả, dáng điệu thanh tao, thì những cô gái Bà La Môn bỗng nghe
lòng rộn lên một niềm yêu thương rào rạt.
Thiện Hữu bạn chàng, con một người Bà La Môn, yêu chàng hơn ai
hết. Chàng yêu đôi mắt và giọng nói trong trẻo của Tất Đạt. Chàng yêu dáng đi
của Tất Đạt, cử động của chàng. Chàng yêu tất cả những điều Tất Đạt làm và nói,
và trên tất cả, chàng yêu kiến thức của Tất Đạt, những tư tưởng đẹp đẽ và đầy
nhiệt tình, ý chí mạnh mẽ và thiên tính cao vời của chàng. Thiện Hữu biết rằng
chàng trai kia sẽ không trở thành một người Bà La Môn tầm thường, một người
hành lễ tế thần biếng nhác, một kẻ ham nói phù chú, một người hùng biện khoác
lác, một mục sư xảo quyệt, hay chỉ một con chiên ngoan ngớ ngẩn giữa đàn chiên
đông. Không, và chính chàng, Thiện Hữu cũng không muốn trở thành một Bà La Môn
như trăm ngàn Bà La Môn khác. Chàng muốn theo Tất Đạt, con người khả ái tuyệt
vời kia. Vì nếu Tất Đạt có ngày trở thành một vị chúa tể, nếu có một ngày chàng
bước vào cõi quang minh, thì lúc ấy Thiện Hữu muốn theo chàng như bạn chàng,
như người tôi tớ của chàng, như cái bóng của chàng.
Mọi người đều yêu quí Tất Đạt như thế. Chàng làm cho họ vui vẻ
hạnh phúc. Nhưng chính chàng, Tất Đạt, lại không hạnh phúc. Lúc lang thang dọc
những con đường hồng trong vườn, khi ngồi trầm tư trong bóng xanh nhạt của cụm
rừng, khi rửa đôi chân trong buổi thánh tẩy với tư thái đầy trang nghiêm, đâu
đâu chàng cũng được mọi người quí trọng và là nguồn vui cho tất cả. Tuy thế
thâm tâm chàng lại không được yên vui. Mộng ảo và những suy tư khắc khoải dồn
vào tâm tưởng chàng từ khúc sông cuồn cuộn, từ những vì sao lấp lánh, từ ánh
mặt trời chan hoà. Mộng tưởng và vọng động xâm chiếm chàng, dâng lên từ làn
khói của những cuộc tế thần, phát ra từ những thánh thi tuôn tràn từ những giáo
lý của các vị Bà La Môn.
Tất Đạt bắt đầu thấy những hạt giống khổ đau trong chàng. Chàng
bắt đầu cảm thấy tình thương của song thân cũng như tình thương của Thiện Hữu
không thể cho chàng hạnh phúc bình an, không thể thoả mãn chàng. Chàng bắt đầu
ngờ rằng phụ thân đáng kính của chàng và các sư phụ khác, những vị Bà La Môn
thông thái đã truyền hết cho chàng những tri kiến của họ rồi, tất cả kiến thức
của họ đã trút vào túi khôn của chàng rồi. Nhưng túi khôn không đầy, trí năng
chàng không thoả mãn, linh hồn chàng không bình yên và con tim không an nghỉ.
Nước tịnh thuỷ tắm hàng ngày thật tốt, nhưng đây cũng chỉ là nước, không thể
rửa sạch tội lỗi, không làm vơi bớt khổ đau của tâm hồn. Những cuộc tế thần và
khấn nguyện cùng Thượng đế thật là tuyệt diệu, nhưng đấy phải chăng là tất cả?
Và thần linh ấy là gì? Có phải thật là đấng sáng tạo ra thế giới? Không phải
rằng linh hồn duy nhất đã tạo ra vũ trụ hay sao? Và thần linh phải chăng là
những hình thái được tạo dựng như tôi và người, những sinh vật phù du? Và như
thế phải chăng rất nên dâng lễ cho các thần linh? Và ta phải dâng cúng lễ vật
cho ai nữa, phải kính nể ai nữa nếu không phải thần linh. Linh hồn duy nhất? Và
linh hồn ở đâu, trái tim bất diệt ở đâu, nếu không phải Tự ngã, trong phần thâm
sâu, bất diệt mà mỗi người đều mang sẵn? Nhưng đâu là Tự ngã ấy, phần thâm sâu
ấy? Đấy không phải là thịt xương, cũng không phải tư tưởng hay ý thức. Những
người trí thức đều dạy chàng như thế. Vậy thì nó ở đâu? Đi tìm Tự ngã, Linh hồn
ấy, có nơi nào khác đáng đặt chân không? Không ai chỉ đường, vì không ai biết,
từ cha chàng, thầy chàng, những bậc thức giả cho đến những bài thánh thi. Những
người Bà La Môn và những thánh kinh của họ biết hết về mọi sự, họ đã đi sâu vào
mọi vấn đề - sự tạo thiên lập địa, nguồn gốc của ngôn ngữ, thức ăn, hơi thở
vào, thở ra, sự sắp đặt của những giác quan, hành động của những thần linh. Họ
thông thạo vô số vấn đề - nhưng có bỏ công không, nếu họ không thấu hiểu vấn đề
quan trọng độc nhất?
Nhiều câu thơ của thánh kinh nhất là Áo Nghĩa Thư – có nói về
cái thâm sâu ấy. Kinh chép rằng: “Linh hồn mi là cả vũ trụ”. Khi một người ngủ,
người ấy đi vào trong phần thâm sâu của mình va an trú trong linh hồn. Những
câu thơ này chứa đựng một trí tuệ tuyệt diệu, mọi hiểu biết của thánh hiền đã
diễn tả đầy trong ngôn ngữ diễm lệ, trong trẻo như mật hoa mà những con ong hút
được. Không, vốn liếng tri thức to tát ấy, đã được bao thế hệ kế tiếp của những
người hiền triết Bà La Môn kết tập duy trì, không thể nào dễ khinh thường.
Nhưng đâu là những người Bà La Môn, mục sư, hiền triết đã thành công – không
những trong sự nắm vững được tri thức sâu xa nhất này mà còn trong sự chứng
nghiệm tri thức ấy? Đâu là người đã được điểm đạo để có thể, khi đạt đến linh
hồn trong giấc ngủ, giữ linh hồn ấy lại trong trí thức, trong đời sống, khắp
nơi, trong ngôn ngữ và hành động hàng ngày? Tất Đạt quen biết rất nhiều vị Bà
La Môn đáng kính, nhất là cha chàng, một người thánh thiện, thông thái và được
quí trọng. Cha chàng thật đáng kính phục với phong độ trầm tĩnh uy nghi. Ông
sống một đời sống tốt đẹp, lời nói thì khôn ngoan, tư tưởng thì thanh cao, tế
nhị - nhưng cả đến ông ta, người biết nhiều như thế, ông ta sống có hạnh phúc
chăng? Có được bình an chăng? Ông ta lại không là người không ngớt tìm kiếm đó
sao? Ông lại không liên tục tìm đến nguồn với cơn khát không bao giờ được thoả
mãn, đến những cuộc tế thần, hay tìm đến sách vở và những cuộc luận đàm của
dòng Bà La Môn đấy hay sao? Tại sao cha, người không có lỗi lầm ấy, phải rửa
sạch tội lỗi và ráng sức tẩy mình mỗi ngày? Thế thì linh hồn không có ở trong
cha hay sao? Nguồn suối không có sẵn trong chính tâm ông sao? Người ta phải tìm
thấy nguồn ở ngay trong tự thân mình, phải chiếm hữu nó. Mọi việc làm khác đều
là mò mẫm sai lầm.
Đấy là những suy tư của Tất Đạt, nỗi khát khao của chàng, nỗi
sầu muộn của chàng.
Chàng nhẩm lại với mình những lời trong quyển thánh kinh: “Thật
ra tên của Đại ngã là chân lý. Thật vậy, ai biết điều này sẽ đi vào thế giới
thần tiên mỗi ngày”. Thế giới thần tiên ấy có vẻ như gần, nhưng chưa bao giờ
chàng hoàn toàn đạt đến nó thật sự, chưa bao giờ chàng thoả mãn được nỗi khát
khao to lớn nhất. Và trong số những bậc hiền triết mà chàng quen biết và nghiền
ngẫm lời dạy, cũng không có một ai hoàn toàn đạt đến cõi ấy - thế giới thần
tiên. Không một ai giải thích được niềm khát khao tối hậu.
- Thiện Hữu, Tất Đạt nói với bạn, bạn hãy đi cùng tôi lại cây
bàng kia. Chúng ta hãy tập thiền quán.
Họ đến cây bàng và ngồi cách nhau hai chục bước. Khi chàng ngồi,
sẵn sàng đọc chữ “Om”, Tất Đạt lẩm nhẩm đọc câu thơ: “Om là chiếc cung, mà tên
là linh hồn. Thượng đế, là đích mũi tên. Ở đó người nhắm đến không lay chuyển”.
Khi giờ tập toạ thiền ấy đã qua, Thiện Hữu đứng dậy. Trời đã về
chiều. Ấy là giờ thánh tẩy buổi chiều. Thiện Hữu gọi tên bạn, nhưng Tất Đạt
không trả lời. Chàng ngồi đăm chiêu, đôi mắt chú mục như hướng về một cõi xa
xăm, đầu lưỡi hơi lộ ra giữa hai hàm răng bầu biếc. Chàng không có vẻ như đang
hô hấp; chàng ngồi như thể mất hút trong quán tưởng, nghĩ “Om”, linh hồn như
mũi tên hướng về Đại ngã, Thượng đế.
Một ngày kia, vài vị Sa Môn đi qua thành phố của Tất Đạt. Là
những người khổ hạnh lang thang, họ gồm ba người đã gầy mòn, không già không
trẻ, đôi vai đầy bụi và rướm máu, gần như trần trụi, thân thể rám nắng, họ có
vẻ cô đơn lạ lùng và tương phản với thế giới loài người. Xung quanh họ bao phủ
một làn không khí của lòng say mê tận tuỵ và xã kỷ không chút tiếc thương.
Chiều ấy sau giờ quán tưởng, Tất Đạt nói với bạn: “Ngày mai tôi
sẽ đi theo những vị Sa Môn. Tất Đạt sẽ trở thành Sa Môn như họ”. Thiện Hữu
choáng váng khi nghe những lời nói ấy và đọc niềm cương quyết trên nét mặt
cương nghị của bạn, một niềm cương quyết không chuyển hướng tợ mũi tên phóng
khỏi tầm cung. Khi nhìn nét mặt bạn, Thiện Hữu nhận rõ ngay giờ đã đến; Tất Đạt
sắp bước lên đường chọn lựa; định mệnh chàng bắt đầu ló dạng và cùng với định
mệnh Tất Đạt, định mệnh Thiện Hữu cũng theo cùng. Và mặt Thiện Hữu bỗng tái
xanh như tàu lá, chàng kêu lên:
- Ồ! Tất Đạt! Liệu phụ thân anh có cho phép chăng?
Tất Đạt nhìn bạn như một người tỉnh giấc. Nhanh như chớp chàng
đọc thấu tâm can bạn, nỗi lo âu, lòng tùng phục.
- Đừng phí lời, Thiện Hữu – Chàng khẽ nói. Ngày mai, lúc rạng
đông tôi sẽ bắt đầu đời sống Sa Môn. Chúng ta đừng thảo luận chuyện ấy nữa.
Tất Đạt bước vào phòng khi cha đang ngồi trên một tấm đệm. Chàng
tiến đến sau lưng cha và đứng lặng cho đến khi cha biết có chàng.
- Con đấy ư, Tất Đạt? Ông hỏi. Cứ nói lên cho cha nghe những gì
con đang nghĩ.
- Thưa cha, nếu cha cho phép, con đến thưa cha rằng con muốn rời
nhà ngày mai, để đi theo những người khổ hạnh. Con muốn trở thành một vị Sa
Môn. Con tin rằng cha sẽ không ngăn cản.
Người hiền triết Bà La Môn lặng im rất lâu, lâu quá đến nỗi khi
những vì sao đã lạc qua song cửa nhỏ và chuyển hướng, sự im lặng trong gian
phòng mới được đánh tan. Người con đứng lặng, hai vòng tay khép chặt. Người cha
cũng bất động ngồi trên chiếc thảm. Những ngôi sao băng qua nền trời. Rồi ông
bảo:
- Không lẽ cha, một người tu đạo lại thốt lời giận dữ hùng hổ,
nhưng cha rất bất bình. Cha không muốn con lặp lại lời xin ấy một lần nữa.
Bậc hiền nhân từ từ đứng lên. Tất Đạt vẫn khoanh tay đứng lặng.
- Tại sao còn đợi đấy? Cha chàng hỏi.
- Cha cũng hiểu tại sao rồi. Chàng đáp.
Người cha rời phòng, bất mãn và đi nằm.
Khi đã một giờ trôi qua không ngủ được, vị hiền nhân đứng dậy,
đi bách bộ ra khỏi nhà. Ông nhìn qua cửa sổ nhỏ và thấy Tất Đạt vẫn đứng khoanh
tay bất động. Ông có thể thấy chiếc áo nhạt của chàng thấp thoáng. Tâm hồn bất
an, người cha trở về giường nằm. Một giờ nữa lại trôi qua, ông không ngủ được,
lại trở dậy đi bách bộ, ra khỏi nhà và thấy trăng đã lên. Ông nhìn qua cửa sổ.
Tất Đạt còn đứng đấy bất động, vòng tay vẫn khép; mảnh trăng chiếu sáng trên
chân chàng. Người cha đi ngủ, lòng xao xuyến.
Một giờ sau ông trở ra và hai giờ sau ra lại, nhìn qua cửa sổ
thấy Tất Đạt vẫn còn đứng đó trong ánh trăng, trong ánh sao, trong đêm tối. Ông
yên lặng trở lại hàng giờ, và vẫn thấy Tất Đạt đứng đấy bất động. Lòng ông tràn
ngập giận, lo, sợ và buồn.
Vào giờ cuối đêm, trước bình minh, người cha trở lại, đi vào
phòng và thấy đứa con niên thiếu vẫn còn đứng.
Ông trông thấy dáng chàng cao xa lạ với mình. Ông gọi:
- Này Tất Đạt, sao con còn đợi kia?
- Cha đã biết tại sao.
- Con có đợi được đến mai, trưa, chiều hay không?
- Con sẽ đứng và đợi.
- Con sẽ mệt mỏi, Tất Đạt?
- Con không mệt mỏi.
- Con sẽ buồn ngủ, Tất Đạt?
- Con sẽ không buồn ngủ.
- Con sẽ chết, Tất Đạt?
- Con sẽ chết.
- Và con thà chết còn hơn là nghe lời cha con?
- Con luôn luôn nghe lời cha.
- Vậy thì con hãy bỏ ý định của con đi?
- Con sẽ làm những gì cha dạy bảo.
Ánh sáng đầu tiên của ngày lan vào phòng. Người Bà La Môn trông
thấy hai đầu gối của Tất Đạt run nhẹ, nhưng gương mặt chàng bình thản, đôi mắt
nhìn vô tận. Người cha nhận ra rằng Tất Đạt không thể ở lại với mình lâu hơn -
rằng Tất Đạt sắp rời bỏ mình. Ông đặt tay lên vai Tất Đạt và bảo:
- Con sẽ đi vào rừng làm thầy Sa Môn. Nếu con tìm thấy hạnh phúc
trong rừng sâu, hãy trở về và chỉ lại cho ta. Nếu con thấy đấy chỉ là ảo tưởng,
hãy trở về, và chúng ta sẽ lại cúng tế các thần linh. Bây giờ hay hôn mẹ con và
thưa lại cho mẹ hay nơi con đến. Còn ta đã đến giờ ra sông làm lễ thánh tẩy.
Ông buông vai Tất Đạt và ra đi. Tất Đạt lảo đảo bước. Chàng cố
gượng cúi chào cha và tìm mẹ theo lời cha dặn.
Khi Tất Đạt rời châu thành yên tĩnh đang say ngủ vào lúc rạng
đông với đôi chân tê cóng, một bóng người âm thầm xuất hiện từ căn lều cuối
cùng và theo dõi chàng. Đó là Thiện Hữu. Tất Đạt mỉm cười.
- Bạn đến đấy à!
- Tôi vừa đến. Thiện Hữu trả lời.
........
(Chương cuối )
Chương mười hai
THIỆN HỮU
Một dạo Thiện Hữu cùng với vài Sa Môn khác đến nghỉ ngơi trong
khu vườn chơi mà Kiều Lan, người kỹ nữ đã dâng cúng đồ đệ của đức Phật. Chàng
nghe nói về một người lái đò già bên sông, cách một ngày đường, mà nhiều người
cho là hiền nhân. Khi Thiện Hữu lên đường khất thực, chàng chọn con đường ngang
qua khúc sông ấy, hăm hở muốn thấy được người lái đò kia, vì tuy chàng đã sống
theo giới luật và được những người sư đệ kính trọng nhờ tuổi tác và đức khiêm
cung, chàng vẫn còn đang thao thức trong tâm hồn, và sự tìm tòi của chàng vẫn
không được thoả mãn.
Chàng đến bờ sông và nhờ người lái đò đưa chàng qua bên kia bờ.
Khi họ đã đến bến chàng nói với người lái đò:
- Ông thật tốt với những Sa Môn khất sĩ. Ông đã đưa rất nhiều
chúng tôi sang sông. Thế ra ông cũng là một người đang tìm con đường chánh đạo
sao?
Đôi mắt già nua của Tất Đạt thoáng hiện nụ cười khi chàng đáp:
- Người tự gọi mình là một kẻ tìm kiếm sao, hỡi thầy tỳ kheo,
khi trông người cũng đã khá tuổi tác, và lại mặc áo tăng sĩ của đức Cồ Đàm?
- Tôi già nua thật, Thiện Hữu nói – nhưng tôi chưa bao giờ thôi
tìm kiếm. Tôi sẽ không bao giờ thôi tìm kiếm. Đấy như là định mệnh của tôi. Tôi
đoán hình như người cũng đã tìm kiếm. Người có thể nói cho tôi nghe chút đỉnh
về điều đó không. Hỡi ông bạn?
Tất Đạt đáp:
- Có cái gì xứng đáng cho tôi nói với ngài đâu, trừ ra rằng ngài
tìm kiếm quá nhiều, và bởi ngài tìm kiếm quá nhiều, ngài không thể nào gặp
được.
- Sao lại như thế? Thiện Hữu hỏi.
- Khi một người tìm kiếm, thì thường thường anh ta chỉ thấy có
điều mà anh ta tìm kiếm; và anh ta không thể gặp được cái gì, không thể thu
nhận được gì, bởi anh ta chỉ nghĩ về điều anh ta đang tìm, bởi anh ta có mục
đích, và bị ám ảnh vì mục đích ấy. Tìm kiếm có nghĩa là mục đích, nhưng “gặp”
có nghĩa là tự do tự tại, sẵn sàng đón nhận, không có mục đích cố định nào. Hỡi
người Sa Môn khả kính, có lẽ ngài quả là một người tìm tòi, vì trong khi cố đạt
mục đích, ngài đã không thấy bao nhiêu sự vật trước mắt ngài.
- Tôi vẫn chưa hiểu thấu. Ngài muốn nói gì?
Tất Đạt bảo:
- Có một lần, vị Sa Môn đáng kính ơi, cách nhiều năm qua, ngài
đến sông này và trông thấy một người ngủ ở đây. Ngồi bên cạnh kẻ kia trông
chừng giấc ngủ cho nó, nhưng ngài lại không nhận ra kẻ đang ngủ đó là ai.
Quá ngạc nhiên, và như một người mắc phải bùa chú, vị Sa Môn
trừng trừng nhìn người lái đò:
- Anh có phải là Tất Đạt không? Chàng e dè hỏi. Tôi lại không
nhận ra anh lần này nữa! Tôi rất sung sướng được gặp lại anh, Tất Đạt. Rất sung
sướng. Anh đã thay đổi rất nhiều, bạn ơi. Và bây giờ anh đã thành người lái đò
sao?
Tất Đạt cười lớn thân mật:
- Phải, tôi đã trở thành người lái đò! Nhiều người phải thay đổi
khá nhiều và mặc đủ mọi chiếc áo. Tôi là một trong những kẻ ấy, bạn. Rất hoan
nghênh bạn, Thiện Hữu, xin mời bạn ở lại hôm nay trong chòi tôi.
Thiện Hữu ở lại đêm ấy trong chòi và ngủ trên chiếc giường của
Vệ Sử ngày xưa. Chàng hỏi người bạn thời niên thiếu kia rất nhiều câu hỏi. Và
Tất Đạt có biết bao nhiêu câu chuyện để kể cho Thiện Hữu nghe về đời chàng.
Sáng hôm sau, khi đã đến lúc từ giã, Thiện Hữu ngập ngừng bảo
bạn:
- Trước khi tiếp tục lên đường, Tất Đạt, tôi muốn hỏi anh một
lời nữa. Anh có một thuyết lý nào không, một niềm tin hay hiểu biết mà anh chấp
trì, giúp anh sống và hành động phải lẽ?
Tất Đạt nói:
- Bạn cũng biết rồi, ngay khi còn là một thiếu niên, khi chúng
ta sống với những người khổ hạnh trong rừng già, tôi đã không mấy tin vào chủ
thuyết và thầy dạy, và tôi đã ngoảnh mặt đi trước những thứ ấy. Bây giờ tôi vẫn
còn như thế đó, mặc dù tôi đã qua bao nhiêu người dạy dỗ. Một người kỹ nữ xinh
đẹp đã là thầy tôi một thời gian khá lâu, và một thương gia giàu, một tay bạc
sành sỏi. Vào một dịp khác, một người khất sĩ của đức Phật là thầy tôi. Người
dừng bước du khất để ngồi bên tôi khi tôi ngủ thiếp trong khu rừng. Tôi cũng
học được một ít từ người ấy và rất cám ơn người. Nhưng nhất là tôi đã học từ
con sông này và từ người trước tôi, Vệ Sử. Ông quả thật là một người giản dị;
ông không phải là một nhà tư tưởng, nhưng cũng trực nhận được lẽ vi diệu như
đức Cồ Đàm. Ông thật là một vì thánh.
Thiện Hữu nói:
- Tất Đạt, tôi thấy dường như anh cũng còn thích đùa bỡn chút
đỉnh. Tôi tin anh và biết anh đã không theo một vị thầy nào, nhưng đến cả chính
anh lại không có một lý thuyết, một tư tưởng nào hay sao? Anh lại không khám
phá được cho chính mình một vài tri thức giúp anh sống hay sao? Tôi sẽ rất sung
sướng nếu được anh nói cho nghe về điều ấy.
Tất Đạt nói:
- Vâng, tôi đã có những ý nghĩ và hiểu biết thâu nhặt được thỉnh
thoảng. Đôi khi, trong một giờ hay một ngày, tôi đã trực giác có tri thức, hệt
như người ta cảm thấy sự sống trong nhịp tim. Tôi đã có nhiều ý tưởng, nhưng
thật khó nói cho bạn nghe về chúng. Nhưng đây là một ý tưởng đã làm tôi chú ý,
Thiện Hữu. Sự khôn ngoan không thể truyền cho kẻ khác. Trí tuệ mà một người
hiền triết cố truyền lại luôn luôn nghe có vẻ điên rồ.
- Anh đùa đấy chăng? Thiện Hữu hỏi.
- Không, tôi đang nói với bạn điều mà tôi đã tìm thấy. Kiến thức
có thể truyền được nhưng trí tuệ thì không. Người ta có thể tìm thấy nó, sống
trong nó, được thêm sức mạnh vì nó, làm nên những phép lạ nhờ nó, nhưng người
ta không thể truyền dạy nó được. Tôi đặt nghi vấn về điều này từ hồi còn trẻ,
và chính nghi vấn đó đã làm cho tôi xa lánh mọi thầy học. Có một ý tưởng tôi
suy ra, Thiện Hữu, mà có lẽ bạn cũng lại cho là một trò đùa hay một sự điên rồ nữa:
ấy là trong mọi sự thật, điều ngược lại cũng đúng không kém. Chẳng hạn, một sự
thật chỉ có thể diễn tả và gói trọn trong danh từ nếu sự thật chỉ có một mặt.
Mọi điều, nếu được suy tưởng và diễn tả thành danh từ thì đều là phiến diện,
chỉ là nửa phần sự thật, nó thiếu hẳn tính cách toàn vẹn, tròn đầy, nhất thể.
Khi đức Phật dạy về thế giới, Ngài phải phân chia thành Khổ đế và Niết Bàn,
thành Vọng và Chân, thành khổ đau và giải thoát. Người ta không thể làm khác
hơn, không có phương pháp nào khác cho những người giảng dạy. Nhưng thế giới tự
nó, ở trong ta và xung quanh ta, thì lại không bao giờ phiến diện. Không bao
giờ một người hay một sự việc lại thuần khổ hay thuần lạc, không bao giờ một
người lại thuần là thánh thiện hay thuần tội lỗi; chỉ dường như thế bởi vì
chúng ta bị mắc phải một ảo tưởng rằng thời gian là một cái gì có thực. Thời
gian không thực có, Thiện Hữu. Tôi đã luôn luôn trực nhận điều này. Và nếu thời
gian không thực có, thì đừng tưởng tượng ngăn chia cõi đời này với cõi vô cùng,
ngăn chia thiện và ác, hạnh phúc và đau khổ, tất cả cũng chỉ là một ảo tưởng …
- Sao lại như thế? Thiện Hữu hỏi, hoang mang.
- Này nhé, bạn! Tôi là một kẻ phạm tội và bạn là một kẻ phạm
tội, nhưng một ngày kia người tội lỗi cũng sẽ là Đại ngã trở lại, sẽ đạt Niết
Bàn, sẽ trở thành một đức Phật. Nhưng ý niệm “một ngày kia” ấy là một ảo tưởng:
đấy chỉ là một sự so sánh. Kẻ tội nhân không phải đang tiến hoá, mặc dù tư
tưởng ta không quan niệm khác hơn. Không, đức Phật, tiềm năng đã sẵn có trong
người tội lỗi, tương lai đã ở trong hiện tại. Đức Phật tiềm tàng ấy phải được
trực nhận trong người kia, trong bạn, trong tất cả mọi người. Thiện Hữu, thế
giới không phải bất toàn hay đang từ từ tiến trên đường dài để đạt đến Toàn
Thiện. Không, nó hoàn hảo trong mọi giây phút, mọi tội lỗi mang theo với nó sự
ân xá, mọi trẻ con đã là những ông già tiềm tàng, mọi nầm non đã mang sẵn chết
chóc, và trong mọi người hấp hối, đã có sự sống Vĩnh cửu. Một người không thể
nào thấy được người khác đã đi bao xa, đức Phật hiện hữu trong kẻ trộm cướp và
tay bạc bịp; kẻ trộm cướp hiện diện trong người Bà La Môn. Trong lúc quán tưởng
sâu xa, ta có thể bất chấp thời gian tính, thấy đồng thời tất cả quá khứ, hiện
tại, vị lai, và khi thấy mọi sự đều tốt, đều hoàn hảo, mọi sự đều là Đại ngã,
linh hồn. Bởi thế đối với tôi dường như mọi sự vật hiện hữu đều tốt cả - chết
cũng như sống, tội lỗi cũng như thánh thiện, khôn ngoan cũng như điên rồ. Mọi
sự đều cần thiết, mọi sự chỉ cần sự biểu đồng tình của tôi, cái gật đầu của
tôi, niềm yêu thương và thông cảm của tôi: lúc đó tất cả đều tốt đẹp đối với
tôi và không gì có thể làm hại tôi nữa. Tôi đã học qua thể xác và linh hồn tôi
rằng tôi cần phải phạm tội, cần phải đắm mê dục lạc, cần phải lao tâm nhọc trí
kiếm tiền của, trải qua những cơn buồn nôn và xuống tận cùng hố thẳm tuyệt
vọng, để mà học đừng chống chọi lại chúng, để mà học yêu thương cuộc đời, và
không còn so sánh nó với một thứ thế giới tưởng tượng viễn vông do mình ao ước,
không còn so sánh nó với một ảo tưởng nào về Toàn Thiện, mà trái lại để cuộc đời
nguyên trạng là nó, yêu thương và vui thích được dự phần với nó. Những điều
này, Thiện Hữu ơi, là vài ý tưởng trong đầu tôi.
Tất Đạt cúi xuống nâng một hòn đá khỏi mặt đất, cầm trên tay.
- Đây, - chàng nâng niu viên đá, - đây là một viên đá, và trong
một thời gian nào đó có lẽ nó sẽ là đất, và từ đất trở thành cây, loài vật hay
người. Trước đây có thể tôi đã nói: viên đá này chỉ là đá, nó không có giá trị,
nó thuộc về thế giới vật chất trơ lì, nhưng có lẽ trong vòng biến hoá viên đá
cũng có thể trở thành người và linh hồn, vật thì nó cũng quan trọng. Đấy là
điều mà đáng lẽ tôi đã nghĩ. Nhưng bây giờ thì tôi lại nghĩ: hòn đá này là đá,
nó cũng là loài vật, Chúa và Phật. Tôi không yêu kính nó vì nó là một vật và sẽ
trở thành một vật gì khác, nhưng vì nó từ lâu đã, và mãi mãi sẽ là mọi sự. Tôi
yêu nó chỉ vì nó là một hòn đá. Tôi thấy giá trị và ý nghĩa trong mọi đường vân
tinh vi của nó và trong mọi lỗ hổng, trong màu vàng, màu xám, trong vẻ cứng và
âm thanh của nó khi tôi gõ lên trong sự khô ráo hay ẩm ướt của bề mặt. Có những
hòn đá sờ giống dầu hay xà phòng, trông giống như lá hay cát, và mỗi viên đá
đều khác biệt và tôn thờ Toàn Thiện một cách riêng; mỗi viên đá đều là Đại ngã.
Đồng thời nó lại cũng rất là đá, trơn như dầu hay xà phòng và chính điều đó làm
tôi thích thú và thấy nó thần diệu, đáng tôn thờ. Nhưng thôi tôi không nói thêm
nữa. Danh từ không diễn tả được tư tưởng bao nhiêu. Những ý tưởng luôn luôn trở
nên hơi khác đi ngay khi chúng được diễn tả, chúng trở nên méo mó, đôi khi điên
rồ. Tuy vậy, điều này cũng làm cho tôi thấy thú vị và có lẽ đúng, rằng cái gì
có giá trị, là chân lý đối với một người, thì đối với người khác nó dường như
vô nghĩa.
Thiện Hữu đã lắng nghe trong im lặng.
- Tại sao anh kể cho tôi nghe về hòn đá? Chàng hỏi sau một lúc
ngập ngừng.
- Tôi không cốt làm thế. Nhưng có lẽ điều ấy chứng tỏ rằng tôi
yêu hòn đá, con sông và tất cả mọi sự mà ta thấy đây và từ đó ta có thể học.
Tôi có thể yêu thương một hòn đá, Thiện Hữu ạ, và một thân cây hay một mảnh vỏ
cây. Đấy là sự vật, và người ta có thể yêu mến sự vật. Nhưng người ta không thể
yêu mến danh từ. Vì thế, những lời giảng dạy đối với tôi thật vô dụng. Chúng
không cứng, cũng không mềm, không vị - chúng không có gì ngoài ra danh từ. Có
lẽ chính chúng đã ngăn cản bạn đạt đến bình an, có lẽ quá nhiều danh từ, vì cả
đến sự giải thoát và đức hạnh, khổ đau và lạc, cũng chỉ là những danh từ, hỡi
Thiện Hữu. Niết Bàn không phải là một sự vật, chỉ có danh từ Niết Bàn mà thôi.
Thiện Hữu:
- Niết Bàn không chỉ là một danh từ, Tất Đạt. Đó là một ý tưởng.
Tất Đạt tiếp:
- Nó có thể là một ý tưởng, nhưng tôi phải thú thật với bạn rằng
tôi không phân biệt mấy giữa ý tưởng và danh từ. Thành thật mà nói, tôi cũng
không gán cho ý tưởng nhiều quan trọng nữa. Tôi quan tâm đến sự vật nhiều hơn.
Chẳng hạn, có một người ở trên khúc sông này đã là tiên phong của tôi và thầy
tôi. Ông ta là một người thánh thiện trong bao nhiêu năm đã chỉ tin vào dòng
sông, và không tin gì khác. Ông ta để ý rằng tiếng con sông đang nói với ông
ta. Ông ta học từ nó, nó dạy dỗ, giáo dục ông ta. Con sông đối với ông ta như
một Thượng đế, mà trong nhiều năm ông không biết rằng mỗi làn gió, mỗi một đám
mây, mỗi thân chim, mỗi con bọ cũng đều thần tiên không kém, hiểu biết và có
thể dạy cho ta hệt như dòng sông mà ông tôn sùng. Nhưng khi người thánh thiện
ấy bỏ đi vào rừng, ông ta biết hết mọi sự, ông biết hơn cả bạn và tôi, mà không
cần thầy hay sách vở, chỉ vì ông ta tin tưởng ở dòng sông.
Thiện Hữu nói:
- Nhưng cái mà anh gọi là “sự vật” ấy, nó có phải là một cái gì
có thật hay không, một cái gì thực hữu nội tại! Nó lại không chỉ là ảo ảnh của
phù trần, hình bóng, hiện tượng mà thôi hay sao? Hòn đá của anh, cây cối của
anh, - chúng có thực hay không?
- Điều đó cũng không làm tôi bận tâm mảy may – Tất Đạt nói. Nếu
chúng là ảo tưởng thì tôi cũng là ảo tưởng, và như thế chúng luôn luôn đồng một
tính chất với tôi. Chính điều này làm cho chúng đáng kính đáng yêu biết mấy.
Chính vì thế mà tôi có thể yêu chúng. Và đây là lý thuyết sẽ làm cho bạn cười
nữa, Thiện Hữu. Ấy là, với tôi, dường như thương yêu là điều quan trọng nhất
trên đời. Những tư tưởng gia vĩ đại có thể đặt nặng vấn đề tìm hiểu vũ trụ nhân
sinh, giảng giải và khinh bỉ nó. Nhưng tôi nghĩ chỉ có một điều quan trọng là
yêu thương thế giới, không phải khinh bỉ nó, không thù ghét nhau mà phải nhìn
thế giới và nhìn chính chúng ta cùng mọi sự vật với lòng yêu thương và kính
trọng.
- Tôi hiểu điều đó, Thiện Hữu bảo. Nhưng đây chính là cái mà
đấng Giác Ngộ gọi là vọng tưởng. Ngài dạy lẽ độ lượng, nhẫn nhục, từ bi … nhưng
không dạy yêu thương. Ngài giới răn chúng ta không được trói buộc mình vào
những tình yêu thế tục.
- Tôi hiểu, Tất Đạt nói, nụ cười chàng sáng ngời hào quang, -
tôi hiểu, Thiện Hữu, và đây chúng ta lại đang rối ren vì nghĩa danh từ, lọt vào
trong sự tranh chấp của những tiếng, lời, vì tôi không phủ nhận rằng danh từ
của tôi về yêu thương thật là trái ngược với những lời chỉ dạy của đức Cồ Đàm.
Chính vì thế mà tôi khinh thường danh từ thế đó, Thiện Hữu, vì tôi biết mâu
thuẫn kia chỉ là một ảo tưởng. Tôi biết ý tôi không mâu thuẫn với đức Phật.
Thật vậy, làm sao Ngài có thể không biết đến Tình Yêu; Ngài, người đã trực nhận
mọi sự phù phiếm giả tạo của nhân sinh, nhưng mặc dù vậy, Ngài vẫn yêu nhân
loại đến độ đã tận tuỵ một đời chỉ để giúp đỡ và giáo dục con người? Với bậc
thầy cao cả này, cũng thế, tôi xem sự vật quan trọng hơn danh từ, hành động và
đời sống của Ngài đối với tôi quan trọng hơn lời của Ngài, cử động của bàn tay
Ngài đối với tôi quan trọng hơn quan niệm của Ngài. Không phải vì lời nói hay
tư tưởng của Ngài mà tôi xem Ngài là một vĩ nhân, mà chính là hành vi và nếp
sống của Ngài.
Hai người im lặng một lúc lâu. Khi Thiện Hữu sửa soạn từ giã,
chàng nói:
- Cám ơn anh đã nói cho tôi nghe những ý tưởng của anh, Tất Đạt.
Một vài ý tưởng thật là quái lạ. Tôi không thể nắm vững được chúng ngay. Tuy
nhiên, cảm ơn anh và chúc anh hưởng nhiều ngày bình an.
Nhưng trong thâm tâm, chàng lại nghĩ: Tất Đạt thật là một người
lạ lùng, diễn tả những tư tưởng kỳ dị, có vẻ điên rồ. Thật là khác với những
lời của Thế Tôn biết bao! Lời Thế Tôn thì bao giờ cũng sáng sủa, trực tiếp,
hiểu được ngay; không có gì là kỳ dị, quái gở hay đáng cười. Nhưng tay chân Tất
Đạt, mắt chàng, vừng trán chàng, hơi thở, nụ cười chàng, cái chào của chàng,
dáng điệu của chàng có ảnh hưởng nơi ta khác với những tư tưởng của chàng. Từ
ngày Thế Tôn nhập Niết Bàn, chưa bao giờ ta gặp được một người, trừ Tất Đạt, mà
về người ấy ta nghĩ: đây chính thực là một người thánh thiện! Ý nghĩ anh ta có
thể quái dị, lời lẽ anh ta có vẻ điên rồ, nhưng cái nhìn, bàn tay anh, da thịt
anh, tất cả toả ngời sự trong sáng, thanh bình, hiền hoà, thánh thiện mà ta
chưa hề thấy ở nơi nào bất cứ một người nào từ khi vị thầy Giác Ngộ của ta
khuất bóng.
Khi Thiện Hữu đang có những tư tưởng ngổn ngang đối chọi ấy,
chàng lại cúi chào Tất Đạt đầy trìu mến đối với chàng. Thiện Hữu cúi thấp trước
con người đang ngồi trầm tĩnh.
- Tất Đạt, Thiện Hữu bảo – bây giờ chúng ta đã là những ông già.
Có thể chúng ta sẽ không bao giờ gặp lại nhau trên đời này nữa. Tôi có thể thấy
được, hỡi bạn thân yêu, rằng anh đã tìm thấy bình an. Tôi nhận rằng tôi đã
không tìm thấy nó. Nói cho tôi nghe thêm một lần nữa, hỡi người bạn kính yêu,
hãy nói cho tôi nghe một điều mà tôi có thể hiểu được! Cho tôi một điều gì để
giúp tôi trên đường đi, hỡi Tất Đạt! Đường tôi đi thường gian nan và tăm tối.
Tất Đạt lặng yên nhìn Thiện Hữu với nụ cười trầm tĩnh thanh bình
của chàng. Thiện Hữu nhìn chăm chăm vào mặt chàng, lo ngại, khát khao. Cái nhìn
của Thiện Hữu in dấu niềm đau khổ, sự tìm kiếm không ngừng, và luôn luôn thất
bại. Tất Đạt thấy rõ điều ấy và mỉm cười:
- Cúi gần tôi! – Chàng thì thầm bên tai Thiện Hữu. Nào, đến gần
hơn nữa, sát lại gần, hãy hôn lên trán tôi đi, Thiện Hữu!
Mặc dù ngạc nhiên, chàng do một tình thương lớn thúc đẩy, phải
vâng lời Tất Đạt. Chàng cúi sát gần Tất Đạt và kề môi vào vừng trán. Một cái gì
thần diệu xảy đến với chàng. Khi chàng đang còn vương vấn vì những nỗi kỳ dị
của Tất Đạt, khi chàng nhọc công khổ trí một cách vô hiệu để đuổi xa ý niệm
thời gian, để tưởng tượng Niết Bàn và Khổ đế là một, khi cả đến một ý niệm
khinh bỉ đối với lời lẽ của bạn đang mâu thuẫn với một niềm yêu thương kính
phục vô bờ, thì điều kỳ diệu ấy xảy đến với chàng. Thay vào đấy, chàng thấy
những nét mặt khác, nhiều nét mặt, cả một loạt, một dòng liên tiếp những nét
mặt, trăm ngàn nét mặt, chợt hiện rồi chợt biến, nhưng đồng thời cũng dường như
đều ở đấy, thay đổi không ngừng và mới lạ luôn luôn, tuy thế tất cả đều là Tất
Đạt. Chàng thấy mặt mày một con cá, một con cá đang hấp hối với đôi mắt nhắm
nghiền. Chàng thấy nét mặt hài nhi mới sinh, đỏ hỏn và nhăn nheo, chợt khóc.
Chàng thấy nét mặt một kẻ sát nhân, thấy anh ta thọc dao vào thân thể một
người, đồng thời chàng thấy kẻ tội nhân kia quì gối, bị trói và chiếc đầu bị
chặt đứt do một người đao phủ. Chàng thấy những thân thể trần truồng của đàn
ông và đàn bà trong dáng điệu và trong cơn cuồng nhiệt của yêu đương. Chàng
thấy những thi thể duỗi dài, cứng đờ, lạnh giá, trống trải. Chàng thấy những
đầu thú vật, beo, cá sấu, voi, bò, chim chóc. Chàng thấy thần Sáng tạo và thần
Huỷ diệt. Chàng thấy tất cả những hình dáng, nét mặt kia trong muôn ngàn tương
quan với nhau, tất cả đều hỗ trợ nhau, yêu, ghét, huỷ diệt nhau và trở lại sơ
sinh. Mỗi dáng hình đều đi đến cái chết, đều là những biểu hiện say đắm, khổ
đau của luật vô thường. Tuy thế, không có một hình hài nào là chết hẳn, chúng
chỉ biến hoá, luôn luôn tái sinh, luôn luôn có một bộ mặt mới: chỉ có thời gian
đứng giữa nét mặt này với nét mặt khác. Và tất cả những hình hài và dáng mặt
này nghỉ ngơi, tuôn chảy, sinh hoá trôi qua và hoà lẫn vào nhau, và trên tất cả
những hình hài đó, luôn luôn có một cái gì mong manh, hư ảo, tuy nhiên vẫn hiện
hữu, phủ lên như một làn băng giá mỏng, như một làn da trong suốt, một lớp vỏ,
một dáng hình hay mặt nạ bằng nước – và chiếc mặt nạ kia là nét mặt tươi cười
của Tất Đạt, mà chàng đang đặt môi hôn. Và Thiện Hữu thấy rằng nụ cười phớt
trên bao nhiêu hình hài ẩn nấp kia, nụ cười của sự Nhất thể phảng phất trên bao
hình hài tuôn chảy, nụ cười của sự Đồng thời ở trong muôn ngàn cái Sinh và Tử -
trong sinh có tử và ngược lại - nụ cười của Tất Đạt, chính thực là nụ cười trầm
tĩnh, sâu xa, khôn dò, nụ cười có vẻ ban ân vừa có vẻ chế diễu, nụ cười Trí
tuệ, nụ cười muôn mặt của Thế Tôn, đức Phật, mà chàng đã bao lần nhìn thấy,
lòng tràn đầy uy phục. Thiện Hữu biết rõ nụ cười kia chính là nụ cười của đấng
Toàn Giác.
Không còn biết nữa thời gian có hiện hữu hay không, cảnh trước
mắt đã hiện ra trong một giây hay tròn thế kỷ, không còn biết nữa đấy là Tất
Đạt hay đức Thế Tôn, một Tiểu ngã hay cái gì khác, Thiện Hữu như vừa nhận mũi
tên thần diệu đâm sâu vào trong chàng đem lại cho chàng niềm hân hoan. Vô cùng
mừng rỡ, Thiện Hữu vẫn đứng một lúc, nghiêng mình trên nét mặt bình an của Tất
Đạt mà chàng vừa hôn lên, nét mặt đã là sân khấu cho tất cả những hình hài hiện
tại, vị lai. Vẻ mặt chàng không đổi sau khi làn gương của muôn ngàn hình sắc đã
biến mất. Tất Đạt mỉm cười bình an, hiền từ, nụ cười có vẻ đầy ân huệ, cũng có
vẻ đầy châm biếm, hệt như đấng Giác Ngộ đã cười.
Thiện Hữu cúi thấp. Những giọt nước mắt khôn ngăn rỉ xuống gương
mặt già nua. Chàng thấy tràn ngập một cảm giác yêu thương lớn rộng, tràn ngập
niềm kính cẩn. Chàng phủ phục quì trước con người đang ngồi bất động, mà nụ
cười nhắc chàng nhớ đến mọi sự chàng đã từng yêu thương trong cuộc sống, mọi
giá trị và thánh thiện trong đời chàng.
Hết .
Source :http://www.tuvienquangduc.com.au/Truye.../160dongsong01.html
_______
Đọc thêm về Hermann Hesse , dịch giả Phùng Khánh & Phùng
Thăng :
Link :
https://m.facebook.com/story.php?story_fbid=1066124763895241&id=100014931815786
_________
Notes :
(*) :
The word Siddhartha is made up of two words in Sanskrit
language, siddha (achieved) + artha (what was searched for), which together
means "he who has found meaning (of existence)" or "he who has
attained his goals".In fact, the Buddha's own name, before his renunciation,
was Siddhartha Gautama, Prince of Kapilavastu. In this book, the Buddha is
referred to as "Gotama".
(**) :
Hermann Karl Hesse (German: [ˈhɛʁman ˈhɛsə] ; 2 July 1877 – 9
August 1962) was a German-Swiss poet, novelist, and painter. His best-known
works include Demian, Steppenwolf, Siddhartha, and The Glass Bead Game, each of
which explores an individual's search for authenticity, self-knowledge and
spirituality. In 1946, he received the Nobel Prize in Literature .
Source : Wikipedia
_______
( Select / Introduce by THD on his Fb timeline )
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét
Cảm ơn bạn rất nhiều ạ