Một trong những quyển sách có ảnh hưởng sâu đậm trên cách nhìn
của tôi về cuộc đời có lẽ là quyển Alexis Zorba (Zorba con người hoan lạc) của
Nikos Kazantzakis, nhà văn hào Hy Lạp. Hồi đó tôi là sinh viên, và giống nhà
trí thức vai chính trong truyện, tôi đọc đi đọc lại bài “Đối thoại giữa đức
Phật và gã chăn cừu”.
Gã chăn cừu: - Bữa ăn ta đã sẵn, ta đã vắt xong sữa cừu. Cửa
chòi ta đã khóa, lửa ta đã nhóm. Hỡi trời, muốn mưa xuống bao nhiêu cũng được!
Đức Phật: - Ta không cần thức ăn và sữa uống. Gió là căn chòi
của ta, lửa ta đã tắt. Hỡi trời, muốn mưa xuống bao nhiêu cũng được!
Gã chăn cừu: - Ta có cừu, có bò cái, ta có những cánh đồng ông
cha ta để lại, và một con bò đực ấp ủ những con bò cái. Hỡi trời, muốn mưa
xuống bao nhiêu cũng được!
Đức Phật: - Ta không có bò đực, bò cái. Ta không có cánh đồng.
Ta không có gì. Ta không sợ gì. Hỡi trời, muốn mưa xuống bao nhiêu cũng được!
Gã chăn cừu: - Ta có một nàng chăn cừu dễ bảo và trung thành. Từ
nhiều năm nay, nàng là vợ của ta, và ta sung sướng chơi đùa buổi tối với nàng.
Hỡi trời, muốn mưa xuống bao nhiêu cũng được!
Đức Phật: - Ta có một tâm hồn dễ bảo và tự do. Từ nhiều năm nay
ta rèn luyện nó và tập cho nó chơi đùa với ta. Hỡi trời, muốn mưa xuống bao
nhiêu cũng được!
Đọc bài này, tôi không tránh khỏi phân vân trong một thời gian
khá dài. Tuy ba chục năm đã qua, nhưng câu chuyện vẫn còn lẩn quẩn trong đầu óc
tôi và không ngừng trở lại.
Tôi tự hỏi giữa gã chăn cừu và đức Phật, ai là người có lý, ai
là người đáng noi gương theo? Ai là người sống thực, ai đã không lãng phí đời
mình? Giữa cuộc sống hồn nhiên và con đường hướng thượng, giữa đạo và đời, làm
thế nào để lựa chọn?
Và cũng như nhà trí thức trong truyện, tôi đã không tránh khỏi
bị giằng co giữa hai nhân vật, hai khuynh hướng có mặt trong chính bản thân
mình.
Thoạt tiên, tôi cảm thấy gần gũi với gã chăn cừu hơn, bởi vì
cũng như anh chàng Hy Lạp Zorba, cách sống của gã hết sức tự nhiên, tràn đầy
nhựa sống, và mang một tính chất rất “người”.
Trong khi đó, tuy rằng tôi rất thán phục đức Phật, coi đức Phật
như hình ảnh lý tưởng của một con người hoàn mỹ, nhưng tôi cũng cảm thấy mình
không thể nào – hay không đủ can đảm – noi gương theo đức Phật.
Ở đây Phật xuất hiện trong tầm thước tuyệt đối, vượt lên khỏi
loài người, vượt ra ngoài cuộc đời. Và như vậy vượt khỏi tầm tay của con người.
Nhưng rồi tôi lại cảm thấy có một cái gì rất “Thiền’ ở trong
cách sống của gã chăn cừu. Bởi vì nhởn nhơ với đàn cừu, nghêu ngao trên đồng
nội, đâu có khác gì lối sống của vị thiền sư giữa thiên nhiên:
“Rảnh, ném trái rừng kêu vượn tiếp
Lười, câu cá suối gọi còn tranh”
Đói thì ăn trái cây, khát thì uống nước suối, mệt thì nằm ngủ
trên rêu xanh. Không có vấn đề gì. Hạnh phúc sớm chiều một cách thanh thản, tự
tại.
Biết đầu cả hai con đường chỉ là một, dù là sống hồn nhiên, theo
bản năng tự tính, hay rèn luyện tâm linh tới độ “sắc không”?
Tôi lại cảm thấy có một cái gì rất “Thiền’ ở trong cách sống của
gã chăn cừu. Bởi vì nhởn nhơ với đàn cừu, nghêu ngao trên đồng nội, đâu có khác
gì lối sống của vị thiền sư giữa thiên nhiên
Xét cho cùng, có lẽ tất cả bắt đầu từ một ngộ nhận, một ngộ nhận
rất thông thường.
Người ta thường nhìn đạo Phật như một con đường “khổ hạnh”, một
con đường “xuất thế”. Tu theo đạo Phật, đối với nhiều người, là thoát ly hết,
là noi theo gương thái tử Tất Đạt Đa đã từ bỏ ngai vàng và vợ con, để một mình
tĩnh tâm tu luyện cho tới khi đạt được Niết Bàn.
Đạo Phật thường được coi là đạo “diệt dục”, đạo đòi hỏi ở con
người đầy đủ sức mạnh ý chí, để từ bỏ những tình cảm hay kiềm chế những thú
tính của mình. Do đó, nhiều Phật tử nhìn đạo Phật như một con đường cao xa
không thể với tới được, bởi vì tự biết mình không đủ khả năng – hay không muốn
– từ bỏ những sợi dây ràng buộc với thế gian.
Họ lên chùa cũng một phần là để sám hối và mua chuộc lại sự kém
cỏi của họ, và đồng thời để chiêm ngưỡng các siêu nhân mà họ thán phục nhưng
không bao giờ trở thành được, tức là các nhà tu hành…
Nhưng hiểu như vậy là đã quên những lời dậy đầu tiên của đức
Phật Thích Ca tại vườn Lộc Uyển:
“Này các tỳ kheo, có hai con đường cực đoan mà con người phải
tránh nếu muốn đi tìm giải thoát: Đó là con đường chấp chặt vào lạc thú giác
quan, và con đường khổ hạnh, ép xác. Như Lai đã tìm được con đường ở giữa, đó
là con đường trung đạo đưa tới trí tuệ và giác ngộ”.
Đức Phật là người đã trải qua cả hai giai đoạn giàu sang và khổ
hạnh, nên biết rõ hơn ai hết rằng cả hai con đường cực đoan đó đều là ngõ cụt,
chỉ có con đường trung đạo mới có khả năng đưa tới giải thoát. Do đó, chúng ta
phải bác bỏ hẳn quan điểm sai lầm “đạo Phật là khổ hạnh”. Có lý nào đạo Phật
chủ trương diệt khổ lại đi tìm cái khổ thân xác, để trầm mình trong đó và quên
đi mục đích ban đầu?
Với những phát triển của giáo lý Đại thừa, đạo Phật càng ngày
càng đi sâu vào cuộc sống, cũng như hoa sen mọc sát bùn lầy, và bài học của đức
Phật chính là một bài học phổ quát, hướng về tất cả các chúng sinh, để cho tất
cả đều áp dụng được trong cuộc sống “bây giờ và tại đây”.
Bài học chính yếu của đức Phật là con người phải có ý thức được
rằng mình phải tự trách nhiệm lấy mình, và hạnh phúc hay khổ đau chính là tự
cái tâm của mình chứ không đâu xa lạ. Khi đã luyện tập tới mức làm chủ được cái
tâm của mình rồi thì khung cảnh sống không thành vấn đề. Ở đâu lúc bấy giờ cũng
là hạnh phúc.
Trong câu chuyện trên, giả sử gã chăn cừu cứ tiếp tục sống hạnh
phúc trong căn chòi đơn sơ, bên bếp lửa ấm cúng, với người vợ dễ thương, với
đàn cừu, đàn bò dễ bảo, rồi sinh ra một đứa bé kháu khỉnh, thì có gì để nói?
Chỉ có điều cuộc đời thường không đơn giản như vậy. Rồi có thể
một ngày kia, căn chòi sẽ cháy, đàn cừu và đàn bò sẽ ốm lăn ra chết và nàng
chăn cừu sẽ bỏ gã ra đi. Gã chăn cừu cũng có thể sẽ bê bết rượu chè, rồi tranh
giành cướp giật. Hay đâm ra hoảng hốt, thẫn thờ, phẫn chí.
Cái khổ có thể làm chìm đắm con người bất cứ lúc nào.Và trong sự
cùng cực của khổ đau, gã chăn cừu bỗng nhớ tới lời đức Phật: “Tất cả chỉ là ảo
tưởng. Phải nhìn thấy sự hư ảo của cuộc đời, mới thấu được lẽ chân Không và đạt
được chân hạnh phúc…”
Nghĩ cho cùng, cuộc “đối thoại giữa đức Phật và gã chăn cừu”
phải chăng chỉ là một cuộc đối thoại giữa hai khuynh hướng, hai khía cạnh,
chung sống trong chính nội tâm mỗi người? Có thể gã chăn cừu tượng trưng cho
phần xung đột bản năng (cái ça của Freud), trong khi đức Phật tượng trưng cho
phần siêu ngã tâm linh (cái surmoi). Trong mỗi người đều có hai khía cạnh đó,
vừa chống đối nhau nhưng cũng vừa bổ túc cho nhau, làm phong phú cho nhau.
Rồi có thể một ngày nào đó, trên con đường đời và đạo, cũng như
nhà trí thức trong truyện “Alexis Zorba”, hành giả sẽ tìm thấy sự thanh thản,
sự hài hòa giữa tâm hồn và thể xác, giữa siêu ngã và bản năng. Không còn những
tranh chấp nhị nguyên nữa.
Chỉ còn lại cái ta đồng nhất, một cái ta tan biến trong cái
không ta.
----------
Tác giả: Trịnh Nguyên Phước, Tên thật: Trịnh Đinh Hỷ, Pháp danh
Nguyên Phước. Tốt nghiệp Bác sỹ Y khoa tại đại học Y Cochin Port-Royal. Giáo sư
danh dự đại học Y Dược Thành phố Hồ Chí Minh và đại học Huế. Là bác sỹ chuyên
ngành về tiêu hóa, giảng viên đại học Saint-Antoine, phó chủ nhiệm khoa Tiêu
hóa bệnh viện khu vực Orléans. Nay đã nghỉ hưu.
_____
( THD chọn đọc & giới thiệu trên trang nhà FB .)
THD. WA 07.04.2021
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét
Cảm ơn bạn rất nhiều ạ