Với 36 năm trị vì, Tự Đức là ông vua tại vị lâu nhất trong số 13
vua triều Nguyễn. Ông tên thật là Nguyễn Phúc Hồng Nhậm, con trai thứ hai của
vua Thiệu Trị. Lẽ ra anh trai ông là Hồng Bảo mới là người nối ngôi. Nhưng do
tài năng thấp kém, tính khí ngông nghênh nên vua cha truyền ngôi cho Hồng Nhậm
(tức vua Tự Đức)
Vốn bản tính thiếu quyết đoán, vua Tự Đức bế quan tỏa cảng cấm buôn
bán với nước ngoài. Thời đó khoa học và công nghiệp trên thế giới đã phát triển
mạnh mẽ, cạnh tranh buôn bán ngày càng gay gắt, nhưng triều thần quanh vua chỉ
chăm lo việc văn chương, nghiên bút, bàn đến Nghiêu, Thuấn.
Triều đại của ông đánh dấu nhiều biến đổi với vận mệnh nước ta.
Năm 1858, liên quân Pháp-Tây Ban Nha nổ s.ú.n.g tấn công Đà Nẵng. Trước tình
hình người Pháp x.â.m l.ấ.n trong triều đình đặt ra vấn đề cải cách. Liên tiếp
các năm từ 1864 đến 1881 các quan liên tiếp dâng sớ xin nhà vua cho cải cách
toàn diện đất nước nhưng mà vua không quyết dưới sự bàn ra của các đình thần.
Mãi đến năm 1878, triều đình mới bắt đầu cử người thực hiện các bước đầu tiên
trong quá trình cải cách là cho học tiếng nước ngoài, nhưng triều đình vẫn có
những mâu thuẫn để rồi thành hai phe chủ trương cải cách và bảo thủ, rồi đến
khi nước nhà dần rơi vào tay quân Pháp cũng nảy sinh hai phe chủ chiến và chủ
hòa.
Ngày 16 tháng 6 năm Quý Mùi, tức ngày 19 tháng 7 năm 1883, vua
Tự Đức qua đời. Bài vị nhà vua được đưa vào thờ trong Thế Miếu và có Miếu hiệu
Dực Tông Anh Hoàng đế. Lăng vua Tự Đức hiệu Khiêm Lăng, tại làng Dương Xuân
Thượng, huyện Hương Thủy, tỉnh Thừa Thiên.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét
Cảm ơn bạn rất nhiều ạ