Ở Việt Nam có một câu chuyện được lưu truyền trong dân gian về sự tích cây nêu. Chuyện kể rằng:
Ngày
xưa, Ma vương làm chúa tể cõi đất này. Dưới quyền thống trị của Ma vương có rất
nhiều bạo động, hận thù tham vọng nên dân chúng rất khổ. Nhưng trong dân chúng
có người có cái thấy bất nhị: nếu có ma thì thế nào cũng có Bụt. Bụt ở đâu đó
và thế nào Bụt cũng tới để cứu mình nên mình đừng lo. Mình cứ kiên nhẫn đi, một
ngày nào đó Bụt sẽ xuất hiện. Thật vậy, khi ấy Bụt mới thành đạo, Ngài đi thiền
hành tới và ngồi xuống rất yên lặng. Ma vương nghĩ: “Anh chàng này là ai mà có
vẻ khác người như vậy? Ngồi yên, nhẹ nhàng, không quấy phá ai hết. Vậy cứ để
anh ta ngồi”. Bụt ngồi thiền xong đứng lên đi những bước chậm rãi, an lạc,
thanh thoát. Bụt đi thiền hành xong, trở lại ngồi xuống thì Ma vương tới hỏi
thăm:
–
Anh là ai? Anh tới đây làm gì?
Bụt
nói:
–
Tôi thấy đất này đẹp quá! Sớm mai cũng đẹp, buổi chiều cũng đẹp. Tôi ngồi lắng
lòng lại để thấy được những cái đẹp đó. Nó nuôi dưỡng tôi, nó cho tôi hạnh
phúc. Tôi không cần sở hữu đất đai, vườn tược, châu báu ngọc ngà. Tôi không
tranh đua với anh, tôi chỉ muốn anh cho tôi cơ hội được ngồi yên và được đi
những bước thảnh thơi trên hành tinh đẹp đẽ này mà thôi.
Ma
vương thấy điều này không có hại gì tới mình nên nói:
–
Được, anh muốn ngồi bao lâu cũng được, muốn đi bao nhiêu cũng được.
Mấy
ngày sau Bụt nói:
–
Nhưng tôi có nhiều bạn lắm. Tôi có tới 1250 bạn mà người nào cũng muốn ngồi
thiền, đi thiền. Vậy anh có cho phép chúng tôi được ngồi thiền và đi thiền trên
lãnh thổ của anh hay không?
Ma
vương nói:
–
Được, làm gì chứ đi thiền và ngồi thiền thì được.
Hôm
đó trời nắng, Ma vương hỏi:
–
Anh muốn bao nhiêu đất, bao nhiêu vùng để ngồi thiền và đi thiền?
Lúc
đó chưa có thước đo, Bụt nói:
–
Bây giờ nếu anh chịu thì tôi sẽ cởi chiếc áo ca sa của tôi, tung cao lên trời.
Bóng của chiếc y che được từng nào thì đó là đất đai mà chúng tôi cần để ngồi
thiền và đi thiền.
Ma
vương nghĩ nhiều lắm thì chiếc y chỉ che độ một vài cây số nên nói:
–
Không sao hết, anh cứ tung lên đi!
Bụt
cuốn áo ca sa lại và tung lên trời. Như có thần lực, áo ca sa bay lên cao, cao
nữa rồi xòe ra. Và khi xòe ra thì bóng của chiếc ca sa bao trùm hết cả trái
đất. Như vậy, theo nguyên tắc thì Bụt và các đệ tử có quyền đi thiền và ngồi
thiền khắp nơi trên cõi đất. Đó là giao kèo giữa Bụt và Ma vương.
Chuyện
này không có trong kinh mà do dân gian đặt ra. Từ đó về sau mỗi khi Tết đến,
tất cả người dân trong nước dựng lên một cây nêu, trên cây nêu có treo một
chiếc y của Bụt để nhắc mọi người rằng: Đây không chỉ là lãnh thổ của Ma vương,
mà đây cũng là lãnh thổ của Bụt. Chúng ta có quyền tu tập, ngồi thiền và đi
thiền trong lãnh vực này. Làm được chuyện này thì chúng ta sẽ làm giảm thiểu
đau khổ và chế tác được nhiều hạnh phúc. Từ đó các bạn và các đệ tử của Bụt tha
hồ thực tập ngồi thiền, đi thiền, pháp đàm, ăn cơm im lặng tại vì sự thực tập
giúp làm lắng dịu thân tâm, làm cho người ta có thể hiểu nhau, thương nhau và
hòa giải với nhau. Từ đó về sau, nhờ sự thực tập mà thế gian bớt khổ rất nhiều.
Người ta thấy đây không phải chỉ là lãnh thổ của Ma vương mà đây cũng là lãnh
thổ của Bụt. Cứ đến ngày Tết là gia đình nào cũng dựng lên một cây nêu ở trước
sân vào ngày 23 tháng chạp âm lịch, trên đó có treo một chiếc ca sa của Bụt để
nhắc nhở rằng mình phải thực tập để chế tác hạnh phúc và làm giảm thiểu khổ đau
thì Bụt mới có lãnh thổ. Nếu mình bỏ quên sự thực tập, không ngồi thiền, không
đi thiền, không pháp đàm, không ăn cơm trong chánh niệm, không giữ giới thì
lãnh thổ này là lãnh thổ của ma cho dù mình được cho phép thực tập đi nữa.
Dựng
cây nêu vào ngày 23 Tết để ta quán chiếu từ ngày 23 cho đến ngày mồng một Tết
là mình phải tiếp tục thực tập. Chính khi thành Bụt rồi mà còn phải thực tập
huống hồ gì ta chưa thành Bụt. Vì vậy ta cần phải thực tập thật tinh chuyên.
Theo nguyên tắc thì từ ngày 23 tháng chạp đến ngày mồng một Tết ta phải tự nhắc
nhở mình phải tu tập như thế nào để lãnh thổ này là lãnh thổ của Bụt, của an
lành mà không phải là lãnh thổ của Ma vương.
Nhưng
ở Việt Nam, hình như ở Trung quốc cũng vậy, người ta ăn Tết tới 10 ngày. Như
vậy cũng hay vì chúng ta có nhiều thì giờ để vui chơi với nhau. Nhưng trong xã
hội ngày nay con người quá bận rộn nên ta bắt buộc phải giảm từ 10 ngày xuống
còn 3 ngày. Ở Làng Mai chúng ta cũng sẽ thực tập 4 ngày Tết: mồng một, mồng
hai, mồng ba và mồng bốn Tết. Cây nêu là một sự thực tập nhắc nhở chánh niệm.
Nếu không thực tập, không giữ giới, không biết ngồi thiền đi thiền, không biết
nói lời ái ngữ và thực tập lắng nghe thì những tham giận, buồn phiền, lo lắng,
sợ hãi, hận thù sẽ phát triển và lãnh thổ của Bụt sẽ trở thành lãnh thổ của ma.
Cây nêu có chức năng nhắc nhở cho tất cả mọi người là năm mới ta phải thực tập
cho đàng hoàng để làm giảm thiểu khổ đau và chế tác thêm hạnh phúc. Đó là ý
nghĩa của cây nêu. Ở Việt Nam, ngày hôm nay theo nguyên tắc thì tất cả mọi nhà
đều phải dựng một cây nêu ở trước sân để chứng tỏ đây cũng là lãnh thổ của Bụt
và chúng ta phải thực tập thì lãnh thổ này mới thật sự là lãnh thổ của Bụt,
lãnh thổ của từ bi và trí tuệ.
—=oOo=—
NGUỒN
GỐC, Ý NGHĨA CỦA VIỆC DỰNG CÂY NÊU
NGÀY
TẾT
Lễ
dựng nêu hay còn gọi là lễ Thượng tiêu (上標)
là nghi thức không thể thiếu trong dịp Tết Nguyên đán tại Việt Nam. Khi cây nêu được dựng lên là báo hiệu ngày Tết chính thức bắt đầu.
Theo
quan niệm truyền thống dân gian, việc dựng cây nêu ngày Tết mang ý nghĩa chính
là để xua đuổi ma quỷ và những điều bất hạnh của năm cũ, cầu mong một năm mới
tốt lành. Trong Kho tàng truyện cổ tích Việt Nam câu truyện Sự tích cây nêu
ngày Tết đại ý kể rằng: Do quỷ chèn ép người, hàng năm đều thu hết hoa lợi do
con người trồng cấy, Phật thấy vậy bèn giúp người trừ quỷ. Phật bảo người trồng
cây nêu (dùng một cây tre thật cao), Phật treo chiếc áo cà sa lên đầu ngọn cây
và thỏa thuận với quỷ rằng, bóng chiếc áo phủ đến đâu sẽ là đất do con người
quản lý và thu hoạch hoa lợi, phần còn lại sẽ thuộc về quỷ. Quỷ đồng ý, Phật
dùng phép cho bóng chiếc áo phủ lên khắp mặt đất khiến quỷ không còn chỗ trú
thân, vì vậy bị đuổi ra ngoài biển đông. Nhưng hàng năm mỗi dịp Tết về, quỷ đều
muốn trở vào đất liền để tìm tiên tổ và kiếm cái ăn. Để tránh bị quỷ quấy
nhiễu, con người bèn dựng cây nêu trên ngọn treo miếng vải, sau đổi thành lá
bùa và chiếc khánh bằng đất nung khi gió rung tạo ra tiếng động để xua đuổi
quỷ. Trên ngọn cây cũng thường treo bó lá dứa hoặc cành đa mỏ hái, vì con người
cho rằng đó là vật mà quỷ rất sợ.
Trong
cộng đồng các dân tộc Việt Nam, việc dựng nêu và treo các vật phẩm trên ngọn
cây có nhiều hình thức khác nhau, tùy theo phong tục và tập quán của từng nơi.
Thậm chí việc dựng cây nêu không chỉ có vào ngày Tết mà còn có thể ở một số lễ
hội dân gian. Tuy nhiên cây nêu vẫn chủ yếu được dựng lên vào ngày Tết Nguyên
đán như một phong tục truyền thống phổ biến ở khắp mọi miền của đất.
Những
năm gần đây, phong tục trồng cây nêu ngày Tết đã dần bị mai một, thay vào đó
người dân thường chơi hoa, cây cảnh hoặc sắm các loại cây như đào, mai, quất…
để bày biện trong nhà với mong muốn một năm mới phát tài phát lộc, sum xuê, đủ
đầy. Tuy nhiên tại một số vùng thôn quê hoặc vùng dân tộc thiểu số việc dựng
cây nêu ngày tết vẫn diễn ra nhưng ý nghĩa nguyên bản để trấn quỷ trừ ma hầu
như không còn nữa. Cây nêu được trồng chủ yếu mang ý nghĩa tượng trưng, cầu
chúc những điều tốt đẹp trong năm mới, cũng là sự hoài niệm về một phong tục
của tết cổ truyền Việt Nam xưa.
Tài
liệu tham khảo:
Trung
tâm Lưu trữ quốc gia I, Châu bản triều Nguyễn.
Quốc
sử quán triều Nguyễn, Đại Nam thực lục.
Trịnh
Hoài Đức, Gia Định thành thông chí.
Nguyễn
Đổng Chi, Kho tàng truyện cổ tích Việt Nam, tập 1, NXB Giáo dục, Hà Nội, 2000.
Phan
Kế Bính, Việt Nam phong tục, Nxb Văn học, Hà Nội, 2005.
Nguyễn
Trọng Phấn, Xã hội Việt Nam từ thế kỷ XVII, NXB Tổng hợp thành phố Hồ Chí Minh,
tp HCM, 2016.
Nguyễn
Văn Huyên, Hội hè lễ tết của người Việt, NXB Thế giới, Hà Nội, 2018.
([1])
Năm lễ hưởng gồm Xuân hưởng, Hạ hưởng, Thu hưởng, Đông hưởng và Hợp hưởng.
Nguyễn
Thu Hoài
Nguồn
TRUNG TÂM LƯU TRỮ QUỐC GIA I
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét
Cảm ơn bạn rất nhiều ạ