Thiền sư Thích Nhất Hạnh cho rằng làm giàu không phải chuyện
xấu, nhưng phải biết mình muốn giàu vì mình muốn hạnh phúc. "Nếu giàu mà
không có hạnh phúc thì giàu để làm gì?", ông nói. "Khi mình hạnh phúc
rồi thì tiền bạc đó sẽ tạo thêm hạnh phúc cho những người xung quanh mình. Khi
xung quanh mình người ta hạnh phúc thì hạnh phúc của mình cũng tăng lên."
Lo lắng và sợ hãi quá mức về tương lai là một trong những nhược
điểm của con người. Theo thiền sư, làm như vậy chỉ phí hoài năng lượng và thời
gian của bản thân, khiến tương lai thêm mờ mịt. Tương lai được xây dựng từ hiện
tại, hiện tại được bồi đắp từ quá khứ. Chỉ cần quản lý hiện tại bằng tất cả khả
năng là mình đã làm tất cả mọi cái cho tương lai.
"Vấn đề không phải là lo lắng, sợ hãi cho tương lai mà là
ngồi thật vững trong hiện tại để nếu cần thì thiết kế cho tương lai. Trở về với
giây phút hiện tại, mình chăm sóc được thân và tâm của mình", ông diễn
giải "Có những căng thẳng, đau nhức trong thân. Nếu mình cứ tiếp tục sống
như lâu nay thì những căng thẳng, những đau nhức đó càng ngày càng bị dồn nén
và nó sẽ sinh ra đủ thứ bệnh."
"Khi trong tâm có căng thẳng và bực bội thì những tư tưởng,
lời nói, cử chỉ và hành động của mình sẽ trở nên bạo động. Điều này tạo ra
nhiều đổ vỡ trong bản thân, trong gia đình và trong doanh nghiệp của
mình."
Tổ đình Từ Hiếu và thiền phái Lâm Tế - Liễu Quán
Thiền sư Thích Nhất Hạnh tên khai sinh là Nguyễn Đình Lang, sinh
ngày 11 tháng 10 năm 1926 trong một đại gia đình tại cố đô Huế, miền Trung Việt
Nam. Cha thầy là ông Nguyễn Đình Phúc, người làng Thành Trung (nay thuộc huyện
Quảng Điền, tỉnh Thừa Thiên Huế) làm quan trong triều đình nhà Nguyễn thời Pháp
thuộc, đảm trách công việc di dân lập ấp. Mẹ thầy là bà Trần Thị Dĩ, người làng
Hà Trung, tỉnh Quảng Trị. Thầy là con áp út trong số 6 người con.
Năm 1942, lúc 16 tuổi, thầy xuất gia với bổn sư là thiền sư
Thanh Quý Chân Thật (1884-1968) thuộc dòng thiền Lâm Tế và phái Liễu Quán ở
chùa Từ Hiếu. Lúc mới vào chùa, thầy được gọi là Điệu Sung. 3 năm sau, vào sáng
sớm ngày rằm tháng 9 âm lịch năm 1945, thầy chính thức được thọ giới sa di. Khi
thọ Ngũ giới, thầy được nhận pháp danh Trừng Quang, có nghĩa là “ánh sáng tịch
tĩnh”. Khi thọ giới sa di, thầy được bổn sư đặt pháp tự Phùng Xuân (逢春), có nghĩa là “đi gặp mùa xuân“.
Chùa Từ Hiếu trên đồi Dương Xuân, phường Thủy Xuân của thành phố
Huế, tổ đình của thiền phái Lâm Tế và Liễu Quán ở Việt Nam, thoạt đầu là An
Dưỡng am do hòa thượng Tánh Thiên - Nhất Định lập ra vào năm 1843. Sau khi ông
viên tịch được một năm, vào năm 1848, đệ tử thứ hai của ông là thiền sư Hải
Thiệu Cương Kỷ cùng các quan thái giám trong cung đã tôn tạo An Dưỡng am thành
một ngôi chùa rộng lớn. Cũng trong năm ấy (Tự Đức nguyên niên, 1848) vua Tự Đức
đã sắc phong chùa là “Từ Hiếu tự” (chùa Từ Hiếu).
Từ điển Phật học định nghĩa thiền phái Lâm Tế như sau: “Lâm Tế
tông: Một dòng Thiền được liệt vào Ngũ gia thất tông (tức là Thiền chính phái)
được thiền sư Lâm Tế sáng lập. Tông này ngày nay là một trong 2 tông của Thiền
vẫn còn tồn tại ở Nhật Bản song song với Tào Động tông. Khoảng vài mươi năm trở
lại đây, tông Lâm Tế được truyền bá rộng rãi ở phương Tây. Về giáo lý của tông
này thì một công thức được xem là quan trọng nhất: đó là “Tứ liệu gián”, có thể
dịch là “4 phân biệt và chọn lựa”. Chính Lâm Tế là người trình bày lý thuyết
này trước đại chúng. Ông dạy:
“Hữu thời đoạt nhân bất đoạt cảnh
Hữu thời đoạt cảnh bất đoạt nhân
Hữu thời nhân cảnh câu đoạt
Hữu thời nhân cảnh câu bất đoạt”.
(Có khi đoạt nhân, không đoạt cảnh
Có khi đoạt cảnh, không đoạt nhân
Có khi nhân, cảnh đều đoạt
Có khi nhân, cảnh đều không đoạt)
“Tư liệu gián” trình bày từng cấp bậc nhận thức theo chủ thể và
khách thể tương đối giống hình thái của Tứ cú phân biệt. Về phần nội dung thì
công thức này tương ứng với thuyết Tứ pháp giới của Hoa Nghiêm tông. Trong 2
cấp đầu tiên thì Ảo ảnh, Vô minh được vượt qua bằng 2 phương cách: một là dựa
vào chủ thể - ở đây được gọi là “nhân” - và hai là nương theo khách thể, là
“cảnh”, là thế giới hiện hữu. Cấp thứ ba phủ nhận cả hai, cả chủ thể lẫn khách
thể, nhưng đặc biệt là sự khác biệt của chủ thể và khách thể vẫn còn tồn tại.
Chỉ ở cấp thứ tư – khi tâm thức đã vượt qua thế giới nhị nguyên, chủ thể và
khách thể không còn tồn tại – thì Chân như mới được nhận diện một cách tột
cùng”.
Thiền sư Thích Nhất Hạnh đã giới thiệu tiểu sử và tư tưởng cơ
bản của thiền sư Lâm Tế, người sáng lập thiền phái Lâm Tế: “Lâm Tế sinh khoảng
từ năm 810 tới năm 815 ở phía Tây tỉnh Sơn Đông của Trung Quốc, ngay phía Nam
sông Hoàng Hà, vào thời vua Đường Hiến Tông. Khi còn trẻ, ông đã rời bỏ gia
đình, đi về phương Bắc để tu học với thiền sư Hoàng Bá ở ngôi chùa gần Hồng
Châu thuộc tỉnh Giang Tây ở phía Nam sông Dương Tử. Thời kỳ này là thời kỳ bất
ổn về chính trị, triều đình đàn áp Phật giáo và một chỉ dụ của vua Đường Vũ
Tông vào năm 845 đã buộc các sư sãi và tăng ni phải hoàn tục. Nhiều ngôi chùa ở
các thành phố và nhiều tượng Phật bị phá hủy. Sau vài năm tu học, Lâm Tế nghe
lời Hoàng Bá đến tu học với thiền sư ẩn dật Đại Ngu rồi sau đó, ông lại trở về
tiếp tục tu học với các nhà sư ở ngôi chùa của Hoàng Bá. Một thời gian sau, ông
trụ trì ngôi chùa ở Trấn Châu, Hà Bắc, bắt đầu dạy các đệ tử theo lối rất riêng
đầy kịch tính. Theo truyền thống ở Trung Quốc, ông lấy pháp danh theo tên ngọn
núi Lâm Tế có ngôi chùa của ông. Ông sống ở đó cho tới khi viên tịch vào năm
867. Ông chưa bao giờ ghi chép các bài giảng pháp của mình, nhưng đệ tử của ông
đã chép lại những lời giảng của ông thành tập "Lâm Tế ngữ lục".
Thuở còn là một sa di, ông học hỏi rất chuyên cần và am hiểu sâu
sắc Tam tạng kinh (tripitaka) gồm có các kinh (sutra), luận và luật (vinaya).
Ông thấy rằng nhiều tu sĩ học hỏi rất chuyên cần, nhưng sở học của họ lại chẳng
giúp ích gì cho sự biến đổi tâm tính của họ. Họ tìm kiến thức về Phật giáo chỉ
để có tiếng tăm hoặc có một vị trí nào đó trong chùa. Vì vậy, ông buông bỏ hết
những nghiên cứu về Phật pháp để hành thiền. Ông có hiểu biết sâu sắc về Phật
pháp, nhưng lối giảng dạy của ông đặt cơ sở trên niềm tin mỗi người chỉ cần
tỉnh thức, nhận ra bản chất thật sự của mình và sống như những người bình
thường khác. Ông không bao giờ tự nhận mình là một thiền sư, mà chỉ tự gọi mình
là “một người bạn tốt trong tinh thần”, một người bạn có thể giúp người khác
đạt được chứng ngộ. Ông gọi người có căn cơ để giảng dạy Phật pháp là “người
chủ” và những người đến tu học là “những vị khách”.
Ông đưa ra ý niệm “người vô sự” (a business-less person) để chỉ
người chẳng có gì để làm và chẳng có nơi nào để đi, và theo ông, đó là con
người lý tưởng. Theo Thượng tọa bộ (Theravada), con người lý tưởng là a la hán
(arhat), người tu hành để đạt được sự giác ngộ, còn theo Phật giáo Đại thừa,
con người lý tưởng là bồ tát (bodhisattva), người có lòng từ bi giúp đỡ những
người khác đạt được sự giải thoát. Theo ông, người vô sự chẳng hề chạy theo sự
giác ngộ hay chẳng muốn nắm bắt bất cứ điều gì, dù cho điều ấy có là chính Đức
Phật. Người chẳng làm gì hết là người đã dừng lại. Người vô sự là con người
thật trong tâm hồn của mỗi người trong chúng ta. Khi chúng ta biết dừng lại và
sống hoàn toàn trong giây phút hiện tại, chúng ta sẽ thấu hiểu và cảm nhận được
tất cả những gì ở bên trong chúng ta và tất cả những gì ở bên ngoài. Chúng ta
không còn bị cuốn theo quá khứ, tương lai hay những suy nghĩ, những cảm xúc và
những dự định của mình. Chúng ta thường cho rằng những ý niệm của chúng ta về
mọi vật là thực chất của mọi vật. Tuy nhiên ý niệm của chúng ta về Đức Phật chỉ
là một ý niệm nhiều khi khác xa thực tế. Đức Phật ở bên ngoài chúng ta là một
người đã sinh ra, đã sống 80 năm rồi nhập diệt. Đi tìm một vị Phật như vậy
chẳng khác nào đi tìm một cái bóng, một hồn ma của Đức Phật, và một ý niệm về
Đức Phật như thế sẽ là một trở ngại ngăn cản bước tiến của chúng ta. Ông đã có
lần nói rằng khi gặp hồn ma của Đức Phật, chúng ta phải cắt đầu hồn ma ấy. Khi
nhìn vào tâm hồn mình hay nhìn ra bên ngoài, chúng ta phải cắt đầu của tất cả
những gì chúng ta bắt gặp và dứt bỏ hết những quan niệm và những ý tưởng của
mình về mọi vật, kể cả những ý tưởng về Phật giáo và những lời dạy của Đức
Phật. Một vị Phật là người chẳng còn gì để làm và chẳng còn gì để tìm kiếm. Khi
chẳng làm gì hết, khi dừng lại, chúng ta sẽ sống tự do và sống thật với chính
mình, và sự giải thoát của chúng ta sẽ góp phần vào sự giải thoát của những
người khác” (Zen battles – Modern commentary on the teachings of Master Lin Ji,
Thích Nhất Hạnh, tr. 12, 13, 15)
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét
Cảm ơn bạn rất nhiều ạ